VNTB – Đảng CSVN: những nguy cơ nội tại (bài 15)*

VNTB – Đảng CSVN: những nguy cơ nội tại (bài 15)*

Đan Tâm

(VNTB) – Chế độ chính trị là sản phẩm của con người, nếu phù hợp với thị trường sẽ thúc đẩy xã hội phát triển và ngược lại.

Bài 15: Nguy cơ từ chế độ toàn trị Trung Cộng song hành với một Nhà nước tư bản thân hữu 

Đại dịch Covid-19 đang làm thay đổi trật tự thế giới, làm căng thẳng sự đối đầu chế độ chính trị khác biệt ý thức hệ: Trung Cộng và Phương Tây. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc, mặc dù sự lựa chọn sẽ là một khó khăn. Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Quý Thọ đã đưa ra một nhận định về khả năng xoay “mô hình chính trị” cho Việt Nam trước tình hình hậu Covid-19 tạo ra nhiều thay đổi cơ bản của cục diện chính trị và kinh tế.

Mô hình đó tránh được một công thức thực tế đã dẫn đến sự sụp đổ như Liên Xô cũ, do bởi nhà nước đã suy thoái, quyền lực tập trung bị tha hóa và động lực làm việc bị triệt tiêu khi nhân dân tự xem mình là người ngoài cuộc.

ĐCSTQ đã thực thi chính sách ‘cải cách và mở cửa’ từ cuối những năm 1970 với chiến lược thực dụng mèo đen, mèo trắng không quan trọng miễn bắt được chuột’. Chính sách này đã thích nghi trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi điều kiện để đón và hấp thu có hiệu quả làn sóng đầu tư tư bản nước ngoài được chuẩn bị tốt. Nhờ đó, kinh tế TC đã tăng trưởng cao suốt hơn 30 năm, với quy mô GDP hiện tại khoảng 14 nghìn tỷ đô la Mỹ, khiến TC trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới…

Do đó, suốt 30 năm qua mô hình TC đã là ‘biểu tượng’ cho một số nước đang phát triển, trong đó CSVN với sự tương đồng ý thức hệ, noi theo cho đến nay. Mô hình này cũng đã dần dần suy thoái trong quá trình vận hành, tham nhũng nặng nề, chênh lệch giàu nghèo, quá tải đô thị, ô nhiễm môi trường… Kết quả là một nhà nước ‘tư bản thân hữu’ với đặc điểm là quan chức thoái hóa trong bộ máy đặc quyền cấu kết với các doanh nghiệp để chiếm đoạt tài sản công và chia chác đặc lợi dưới nhiều hình thức.

Một giáo sư Trung Quốc là ông Minxin Pei, mô tả tình trạng này trong cuốn sách xuất bản năm 2016: ‘Tư bản thân hữu Trung Quốc’, đã được xuất bản ở Việt Nam. Thực tế vận hành mô hình Trung Quốc có thể được khái quát như sau: Chế độ đảng cộng sản toàn trị song hành một Nhà nước tư bản thân hữu. Công thức này diễn tả hiệu ứng tất yếu của sự ghép nối tình thế, chứ không theo quy luật vận động tự nhiên.

Thị trường tạo nên sức mạnh kinh tế chứ không phải từ bản chất chế độ. Mâu thuẫn giữa thị trường và chế độ chính trị TC này ngày càng trở nên gay gắt. Và hậu quả là sự suy giảm tốc độ tăng trưởng đồng thời với xu hướng tập trung hóa quyền lực. Tỷ lệ tăng GDP của TC giảm liên tục từ trên 10% xuống dưới 6% diễn ra đồng thời với việc chủ tịch Tập thâu tóm quyền lực vào tay cá nhân.

Ông ta thanh trừng phe phái trong chiến dịch chống tham nhũng ‘đả hổ, diệt ruồi’, tự cho mình là ‘hạt nhân lãnh đạo’, sửa đổi điều lệ Đảng và hiến pháp, loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ để có thể kéo dài ngôi vị cá nhân lâu dài. Tương lai ‘xã hội chủ nghĩa mang bản sắc Trung Quốcđang đi vào bế tắt công khai từ năm 2020 này trở đi. Cộng Sản Việt Nam đã cải cách theo mô hình TC sau khoảng 15 năm kể từ thời chủ tịch Giang Trạch Dân.

Hậu quả của mô hình TC tại Việt Nam là khu vực tư bản tư nhân chiếm khoảng 40% GDP, nhưng thực trạng ’tư bản thân hữu’/Lợi ích nhóm đã rất nghiêm trọng. Đảng CSVN đã tự nhận thấy ‘một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên’ đã suy thoái nặng nề về tư tưởng, đạo đức và lối sống. Nguyên trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương là Vũ Ngọc Hoàng đã từng lên tiếng cảnh báo sự suy thoái này gắn với ‘lợi ích nhóm’ và ‘nhóm lợi ích’ từ nhiều năm trước. 

Các nước phương Tây đã nhận rõ bản chất hung hăng của chế độ chuyên quyền toàn trị từ TC. Đối đầu ý thức hệ trong mọi vấn đề quốc tế có nguy cơ dẫn đến cuộc chiến tranh lạnh lần 2, trong đó thay vì làm sụp đổ chế độ ở TC thì sự chiếm đoạt chính trị sẽ là tâm điểm trong trật tự thế giới mới.

Tham vọng địa chính trị của chính quyền Bắc Kinh và việc chiếm đoạt Biển Đông đe dọa sự toàn vẹn lãnh hải của VN, Phillipines & Malaysia đang tạo một lực đẩy lớn hơn về phía Mỹ để bảo vệ chủ quyền và tham gia ‘Tứ giác kim cương plus’, bao gồm Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ, Hàn Quốc, New Zeland và Việt Nam, và chuẩn bị điều kiện đón nhận sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu ra khỏi TC.

Dù trong  nước có mưa lũ, động đất, thời tiết thất thường: mưa đá, vòi rồng, lũ dâng cao  dẫn đến nguy cơ vỡ đập Tam Hiệp, tái bùng phát dịch Vũ Hán; thêm nhiều chỉ trích từ các nước về luật an ninh Hongkong, đàn áp, triệt sản người Duy Ngô Nhĩ, TC vẫn còn đang cố gượng gạo chống chọi một cách vô vọng. Và nhất là cái  nhìn của thế giới về TC giờ đây đã khác xưa, cho thấy TC chưa tự lực cánh sinh  được, còn phải dựa vào nền tảng và các giá trị Mỹ để phát triển, nên giấc mơ  Trung Hoa chưa thấy đâu mà TC đã xuống ruộng lên bờ. 

Chuyển giao quyền lực lãnh đạo đang gặp khó khăn trong thể chế bất ổn theo mô hình TC. Quyền tự do kinh doanh được nới rộng làm tăng các nhu cầu của dân quyền & dân sinh, đặc biệt là quyền tham gia chính trị như giám sát quyền lực đảng và nhà nước.

Khi mô hình Xô Viết sụp đổ, mô hình TC thể hiện như một biến thể, có bản chất tình thế để duy trì chế độ, thay vì là lộ trình cải cách hướng tới chế độ chính trị và kinh tế ổn vững. Thị trường là sản phẩm tự nhiên, tất yếu trong quá trình phát triển loài người, đã sản sinh thời kỳ khai sáng và các cuộc cách mạng công nghiệp, tăng trưởng kinh tế song hành với chế độ dân chủ là minh chứng trong thực tế.

Chế độ chính trị là sản phẩm của con người, nếu phù hợp với thị trường thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển và ngược lại. Thực tế cho thấy, sự giảm tốc kinh tế toàn cầu hiện nay do TC chứ không phải do Mỹ gây ra như trước kia. Ngoài ra, cơ chế kiểm soát của mô hình TC có thể là cơ hội cho những kẻ ‘giấu mình chờ thời’, ‘một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái’ chưa bị lộ và những kẻ bảo thủ nhân danh bảo vệ ý thức hệ. 

Mô hình TC là một tai họa lớn nhất cho Đảng CSVN suốt từ 30 năm qua, bởi vì không cần nó VN vẫn tạo được thành quả kinh tế như ngày nay (hoặc có thể hơn) nếu chọn mô hình Đài Loan, Hàn Quốc hay Singapore, v.v…, từ năm 1990 để khỏi vướng mắc vào các nguy cơ từ TC. 

 Nguy cơ do Trung Cộng xem quan hệ với Việt Nam nằm ở hàng thứ yếu

Việt Nam là một trong 14 quốc gia có chung biên giới trên đất liền với TC. Việt Nam cũng là quốc gia nằm trong khu vực Biển Đông, nơi mà TC đang muốn độc chiếm để tạo ảnh hưởng. Chính vì vậy, có thể nói Việt Nam là một quốc gia nằm ở “vùng lõi” trong chính sách vùng đệm của Bắc Kinh. Nhưng với TC, quan hệ với Việt Nam nằm ở hàng thứ yếu. Điều đó thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ Việt-Trung.

Trong chính sách vùng đệm của mình, TC muốn giữ CSVN ở địa vị như một “chư hầu” cho vai trò “bá quyền” của mình. Chính vì vậy, TC đã tìm mọi cách để lôi kéo kết hợp với đe dọa để giữ CSVN nằm trong vùng ảnh hưởng của TC. Mặt khác, TC với tham vọng thực hiện giấc mộng “đế vương” của mình, luôn luôn muốn chiếm đoạt Biển Đông, nơi Việt Nam có những quyền lợi thiết thân.

Chính vì vậy, các yếu tố trên đã đẩy mối quan hệ Việt – Trung vào những “nan đề” khó giải quyết. Nhiều học giả ca ngợi chính sách đối ngoại “cân bằng” của Việt Nam trong việc xử lý vai trò của Mỹ và TC trong quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, “sự cân bằng” này phản ánh sự yếu kém và không bền vững trong chính sách đối ngoại của CSVN. Bộ máy chính trị thiếu động lực phát triển, chủ yếu là phe nhóm đấu đá, giành giật quyền lực, khiến cho chính trị trong nước CSVN hỗn loạn, các tiềm năng phát triển bị hạn chế.

Những vấn đề chính trị nội bộ gần đây của CSVN cho thấy sự bộc lộ các điểm yếu này. Các nhà phân tích chiến lược quốc tế và Tổng thống Mỹ Donald Trump vẫn còn nghi ngờ về khả năng CSVN thoát hẳn khỏi tầm ảnh hưởng của TC vì lý do kinh tế, chính trị và ý thức hệ, tư tưởng. Ngoài ra, những đe dọa về an ninh quốc gia, bao gồm cả an ninh kinh tế và an ninh quốc phòng trước các cá nhân và doanh nghiệp từ TC tác động lên VN vẫn đang hiện hữu rõ ràng. 

 

*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả

 

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)