VNTB- Sự sợ hãi chính trị đã cầm tù dân tộc Việt Nam 4000 năm qua

Đào Đức Thông


(VNTB) – Chỉ cần sự đứng lên của lương tri 20% dân chúng đứng lên trước sự sợ hãi, số phận nhược tiểu của dân tộc sẽ đổi thay. Mỗi người sẽ phải tự hỏi lương tâm mình sẽ chấp nhận sự sợ hãi hay chiến thắng nó?


Cái nôi hình thành văn hóa làng xã trong cộng đồng người Việt

Văn minh lúa nước là nền văn minh cổ đại xuất hiện cách đây 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đạt đến trình độ cao về kỹ thuật canh tác lúa nước, thủy lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước mới ra đời những nền văn hóa Hemudu, Văn hòa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình, v.v…là cái nôi hình thành văn hóa làng xã.

Đáng tiếc thay, nền văn minh đó chỉ dừng lại ở đó, chúng không có bước phát triển văn minh đồ sắt. Người nông dân sản xuất lúa quá phụ thuộc vào yếu tố thiên nhiên, không phát triển được kỹ thuật công nghiệp. Việt Nam và các quốc gia văn minh lúa nước không tạo ra được tầng lớp trí thức độc lập trong nhân dân và khái niệm yêu nước của nhân dân cũng rất nhỏ nhoi.

Nền nông nghiệp lúa nước giúp cho người dân Việt đủ ăn, song nó là nền sản xuất vất vả, thiếu sáng tạo. Từ thời dựng nước, giữ nước đến nay vẫn thế. Dù được mùa hay mất mùa cơ bản người dân làm ruộng vẫn khổ. Bên cạnh đó các triều đình ngày xưa lại thường rơi vào cảnh vua chúa ăn chơi sa đọa, nên việc thu thuế sẽ ngày càng nặng nề. Quan lại ngày càng đông đảo để cai trị, bốc lột dân ngày sẽ càng đông. Người dân ngoài việc sợ thời tiết thất thường thì nỗi sợ thường nhật là sợ Vua, sợ Quan. Đây được xem là nỗi sợ chính trị.
Trong một nền chính trị cai trị, mục tiêu của các nhà nước là truyền bá sự chính danh Cai trị dân của mình, tôn Vua lên vị trí Thiên Tử có quyền sinh sát toàn dân.

Điển hình là ở Trung Hoa việc truyền bá Khổng Giáo với cương lĩnh Tam Cương (Quân – Sư – Phụ ), Ngũ Thường, rồi Tam Tòng, Tứ Đức được xem trọng để cai trị nhân dân. Điều này vô hình chung đã thúc đẩy sự sợ hãi, nô dịch trong tư duy người dân. Hệ thống này đã tạo ra một lớp sĩ phu học đề phục vụ vua chúa ( Cửa Khổng – sân Trình). Lớp Nho sĩ này lại là lực lượng trí tuệ hiếm hoi của dân tộc nhưng thay vì tạo ra sáng kiến phục vụ sản xuất, phục vụ nhân dân thì họ lại làm tôi tớ cho tầng lớp cai trị và trở thành kẻ thù của nhân dân. Ít ỏi những Nho sĩ có quan điểm tự do, lẽ phải thì bị chính quyền tiêu diệt còn lớp chấp nhận luồn cúi hại dân thì được bổng lộc. Cho đến xã hội hiện nay thì tình hình vẫn không thay đổi.

Tầng lớp quan lại chỉ mong được phục vụ chính quyền, và sẽ phục vụ không điều kiện dù cho chính quyền thối nát đến đâu vì họ sợ chết đói. Không mấy quan sẵn lòng về làm nông dân sống cùng nhân dân vì làm nông rất khổ sở. Mấy ông không đỗ đạt quan lại thì ở nhà ăn bám vợ như Tú Xương…

Trước thực trạng như vậy người dân chỉ mong muốn được an tâm cày cấy không muốn bị quấy rầy bởi chính quyền, quan, quân. Cũng vì vậy mà sự sợ hãi đọng đến chính quyền, nói chính quyền và xa rời chính quyền là điều tất yêu. Người nông dân làm lúa không có khái niệm đất nước là của riêng mình mà đất nước là của vua chúa, quan lại là kẻ thù của nhân dân: “Con ơi nhớ lấy câu này: cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Tạo ra sự sợ hãi trong nhân dân mang đến tạm quyền cho tầng lớp chính quyền cai trị nhưng lại là nguyên dân dẫn đến sự diệt vong của một đất nước, một dân tộc.

Giai cấp cai trị phong kiến sợ nhất là các nhà buôn vì họ có thể tích lũy tiền tài lớn, có nhiều gia nhân, người ủng hộ và có nguy cơ đe dọa quyền lực của vua quan. Vì vậy giải pháp thường thấy của chính quyền phong kiến là ghép tội cầm tù hoặc cho người thủ tiêu nhà buôn, cấm đoán thương mại, bế quan tỏa cảng. Thực tế cho thấy ở các dân tộc phát triển thương mại thì chính quyền phong kiến thường yếu và người dân rất mạnh về kinh tế. Duy trì sự đói nghèo của một quốc gia được giới chính quyền xem là kế sách để duy trì quyền lực hữu hiệu nhất.

Sự sợ hãi chính trị, giai cấp cầm quyền đã tồn tại hàng ngàn năm, chẳng dễ gì thay đổi. Khi cấm đoán thương mại, thì các ngành thủ công, công nghiệp chẳng thể phát triển. Sự đói nghèo, không phát triển về kinh tế phát triển sự sợ hãi, lệ thuộc. Điều tai hại là không chỉ tạo ra lớp quần chúng nông nghiệp vừa đông đảo, vừa khiếp nhược. Cuối cùng dân yếu thì nước chẳng mạnh, các chính quyền yếu và không có lòng dân đã rơi vào tính trạng lệ thuộc, sợ hãi ngoại bang mạnh. Chính quyền sợ hãi cả nhân dân và ngoại bang.

Sợ hãi được đưa lên đỉnh cao. Là khi giặc ngoại bang dùng các đòn bẩn tiêu diệt dân tộc. Lúc đó chính quyền càng sợ hãi sự thức tỉnh của người dân và sử dụng công cụ chuyên chính vô sản trước phản ứng của dân. Lúc ấy những việc tốt cho đất nước như bảo vệ môi trường, từ thiện, làm kinh tế sẽ bị cấm đoán. Khi sự tử tế còn bị lên án, việc tốt không được khuyến khích và còn bị tiêu diệt, ngăn cản thì đất nước rơi vào khủng hoảng và diệt vong.
Chỉ cần sự đứng lên của lương tri 20% dân chúng đứng lên trước sự sợ hãi, số phận nhược tiểu của dân tộc sẽ đổi thay. Mỗi người sẽ phải tự hỏi lương tâm mình sẽ chấp nhận sự sợ hãi hay chiến thắng nó?

Việt Nam từ thời phong kiến người dân, dù vị trí làm nông dân, hay trí thức đều thụ động nhận vào mình sự sợ hãi từ văn hóa Nho giáo của Trung Quốc, và phát huy sự sợ hãi trong điều kiện hiện thực. Cho đến ngày nay sự sợ hãi ấy tiếp tục tồn tại và cuối cùng đẩy vào sự diệt vong của dân tộc con Hồng cháu Lạc mà ít có sức phản kháng, dám đứng lên đấu tranh làm việc tốt. Điều dễ nhận thấy, việc biểu tình để bảo vệ biển đảo Việt Nam trước sự đầu độc, lấn chiếm của giặc phương Bắc trong những năm vừa qua hầu như không có mấy trí thức làm việc nhà nước lên tiếng chia sẻ.

Thoát khỏi sợ hãi về chính trị không chỉ ý nghĩa với chính từng cá nhân chúng ta mà còn là ý nghĩa với người dân nghèo lam lũ nước Việt Nam này.
CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)