“Hỏi là quyền của mày, trả lời là quyền của tao” *

Trong tác phẩm “Bất khuất” (đã được đưa vào chương trình phổ thông), khi bị tra tấn nhục hình để buộc phải khai, tác giả Nguyễn Đức Thuận trả lời: “Hỏi là quyền của mày, trả lời là quyền của tao”. Đó chính là “quyền im lặng” phổ quát ngày nay trên thế giới. Dự luật liên quan tới quyền này đang được các phiên họp Quốc hội thảo luận, tranh cãi sôi nổi, người dân hết sức quan tâm, dõi theo, kỳ vọng những người đại diện pháp lý cho mình thực sự thấu hiểu nguyện vọng, lợi ích mình như hiến định. Vậy lấy gì làm căn cứ, thước đo đánh giá đúng sai cho quyền im lặng đó?


Luật hóa quyền im lặng – “muốn” hay “phải”?
Ở Mỹ, quyền im lặng được hiến định trực tiếp tại điều 5 Tu chính Hiến pháp, “trong tố tụng hình sự, không được phép buộc bất cứ ai phải khai báo tự chống lại mình”. Ở họ một khi đã hiến định thì cơ quan công quyền bị chế tài phải thực hiện, miễn bàn.
Ở các nước EU, Quy phạm 2012/13/EU quy định, nước nào chưa áp dụng đều phải luật hóa quyền im lặng trước ngày 2-6-2014. Những nước ký Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ICCPR ban hành ngày 16-12-1966 ghi nhận quyền cơ bản bao hàm quyền im lặng. Còn nước ta, quyền im lặng được ẩn chứa trong Hiến pháp, tại chương Tòa án, và Việt Nam cũng đã tham gia Công ước ICCPR.
Như vậy, thước đo để đo lường xem nước ta luật hóa quyền im lặng đúng hay sai là do Hiến pháp lẫn công ước quốc tế đã ký, là bắt buộc chứ không phải muốn hay không. Vì vậy cho rằng áp dụng quyền im lặng là “rất vô lý, không thể chấp nhận được”, là “máy móc, bắt chước nước ngoài”, chỉ là quan điểm cá nhân, không thay thế được thước đo đã nêu.
Nội hàm và ngoại diên khái niệm quyền im lặng
Quyền im lặng phải có ít nhất ba dấu hiệu: (1) Được tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến; (2) Không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình; (3) Không buộc phải nhận mình có tội. Dự luật ở ta đã chứa đựng ba dấu hiệu đó. Dấu hiệu (2) và (3), cho thấy “im lặng” không đồng nghĩa “im mồm” như Đại biểu Đỗ Văn Đương “gán”, mà chỉ không trả lời đối với các cáo buộc. Còn lại đương sự vẫn phải có trách nhiệm khai đầy đủ mọi thông tin liên quan tới nhân thân (họ tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp địa chỉ), và còn phải chấp nhận hành động như chụp ảnh, lấy vân tay, nếu từ chối sẽ áp dụng các biện pháp điều tra và buộc thêm tội vi phạm quy định hành chính.
“Hoặc phải từ chối luật hóa quyền im lặng để tiếp tục sử dụng đội ngũ bộ máy tố tụng hình sự chất lượng không thể thích ứng để bảo đảm quyền im lặng như hiện nay, hoặc phải cải cách, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ đó”.
Thuộc phạm trù hình sự, nên quyền im lặng được hầu hết các nước hiến định hoặc ẩn định (suy ra) tại chương Tòa án, không để ở chương “Quyền cơ bản”, cụ thể hóa bằng luật hình sự. Chính vì vậy quyền im lặng người ta không gọi là quyền cơ bản vốn áp dụng cho tất cả mọi con người, mà gọi là “quyền tương tự quyền cơ bản” theo nghĩa cũng là quyền cơ bản nhưng chỉ giới hạn áp dụng cho những người trong diện tố tụng hình sự. Và do chỉ giới hạn và áp dụng trong phạm trù hình sự, nên quan niệm cho rằng thừa nhận quyền im lặng “là diễn biến hòa bình, chống lại nhân dân” vốn thuộc phạm trù “chính trị” liên quan đến số phận dân tộc, vận mệnh quốc gia, như Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Đương phát biểu không chỉ sai căn cứ khoa học mà còn nhầm lẫn hai phạm trù chính trị và hình sự, tức chính trị hóa hình sự và hình sự hóa chính trị.
Cũng do nhầm lẫn đó, Đại biểu Đỗ Văn Đương đã vô hình trung phát biểu sai Hiến pháp về quyền bình đẳng của con người, khi tách “130.000 đối tượng hình sự” ra khỏi “90 triệu dân”, để phân biệt đối xử “với thiểu số người có hành vi nguy hiểm chống lại sự bình yên thì không được dung túng (áp dụng quyền im lặng)”. Trong khi đó, nguyên lý bất di bất dịch của một nhà nước dân chủ là “những người bị bắt, bị giam giữ, bị can, bị cáo, người bị buộc tội cũng là con người”; “phải đảm bảo quyền con người, quyền công dân cho họ… được Hiến pháp quy định” (đúng như phát biểu của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nguyễn Hòa Bình).
Sự nhầm lẫn hai phạm trù đó có thể thấy tại hại khủng khiếp cỡ nào nếu xảy ra trên thực tế ở tầm quốc gia, mà lịch sử thế giới đã trải qua. Năm 1929, Hitler chủ trương, “nước Đức mỗi năm cần đẻ ra 1 triệu trẻ em để thay thế chừng 700.000 đến 800.000 người Đức yếu kém phải giết đi (hình sự), có thế mới đạt tới kết quả xây dựng được dân tộc Đức thượng đẳng nhảy vọt (chính trị )”. Hậu quả, hơn hai phần ba triệu người Đức vướng tội hình sự, thiểu năng, tàn tật, đồng tính luyến ái, không được thừa nhận là “NGƯỜI” bị giết bằng hơi ngạt. Những người cộng sản mới chỉ phản đối, chưa hành động gì, đều bị truy bức, giam cầm, hãm hại, tiêu diệt, với cáo buộc phạm tội “chống nhân dân”, lật đổ chế độ (phát xít), chưa kể cướp đi tính mạng 6 triệu người Do Thái và Di-gan do khác nòi giống họ.
Lợi và hại khi áp dụng quyền im lặng
Mọi chính sách đều chỉ là phương án lựa chọn theo hai dấu hiệu đo lường: khoa học và lợi ích. Thế giới chọn quyền im lặng bởi được khoa học hình sự thừa nhận, và mang lại quyền bình đẳng cho dân họ khi bị rơi vào tình huống “quan sự”. Tuy nhiên đối lại, có thể “làm bó tay các cơ quan tố tụng”, “khó khăn cho hoạt động điều tra”, hay “tốn kém rườm rà” như ý kiến một số đại biểu Quốc hội, nếu như do chất lượng, động cơ, nhận thức, nghiệp vụ non kém trong khuôn khổ phải bảo đảm quyền con người cho đương sự, họ không thể tác nghiệp được.
Trong khi đó, những nước áp dụng quyền im lặng xưa nay chưa hề thấy công trình nghiên cứu nào khẳng định vì thế mà công tác điều tra tố tụng kém đi. Vậy để tránh lo ngại trên, nguyên lý toán tập hợp chỉ cho phép chọn một trong hai khả năng, hoặc phải từ chối luật hóa quyền im lặng để tiếp tục sử dụng đội ngũ bộ máy tố tụng hình sự chất lượng không thể thích ứng để bảo đảm quyền im lặng như hiện nay, hoặc phải cải cách, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ đó.
Hành lang pháp lý để thực thi quyền im lặng
Mọi chính sách không phải cứ khoa học, có lợi, là thành công. Trong thời đại dân chủ pháp quyền nó còn tùy thuộc thể chế, tức có tạo được hành lang pháp lý cho nó xảy ra hay không.
Nếu bảo đảm quyền cơ bản là mục đích, trách nhiệm của mọi hoạt động nhà nước bị hiến pháp và luật chế tài, thì đối với quyền im lặng cũng vậy, phải chế tài được mọi cơ quan liên quan tới tố tụng hình sự. Chế tài áp dụng theo chuẩn mực quy tắc xử sự: trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng, chứ không phải bị cáo; lời khai của bị can bị cáo chỉ được sử dụng là chứng cứ trước tòa nếu phù hợp với những chứng cứ khác, và không được sử dụng nếu là chứng cứ duy nhất; đảm bảo quyền được bào chữa, quyền tiếp cận hồ sơ, đọc và ghi chép tài liệu; đảm bảo luật sư tham gia quá trình tố tụng từ khi bắt giữ; luật sư và bị can bị cáo có quyền thu thập chứng cứ; trách nhiệm thông báo của cơ quan điều tra tố tụng (như ở Đức, Luật tố tụng StPO quy định, trước khi lấy lời khai phải thông báo cho họ được hoàn toàn tự do chọn khai báo hoặc không đối với cáo buộc; quy định, “khi mở đầu phiên tòa phải thông báo cho bị cáo quyền im lặng, dù trước đó họ đã được cảnh sát hay Viện kiểm sát thông báo”).
Nếu người hành xử vi phạm các quy định trên, các bằng chứng đưa ra từ lời khai của nghi can bị cấm sử dụng làm bằng chứng xét xử. Bất kỳ hành xử nào vi phạm các quy định trên đều phải chế tài, áp dụng luật hình sự; dựa trên nguyên tắc: không thể để những người bảo vệ công lý ngồi trên công lý, không thể lấy “cái ác” thậm chí còn ác hơn để chống lại cái ác, đồng nghĩa với “ác hóa”, tức kết cục cái ác sẽ tăng lũy tiến từ người dân tới cơ quan công quyền.
Theo TS. Nguyễn Sỹ Phương – CHLB Đức (Thesaigontimes)

* VNTB đặt lại hình ảnh và tiêu đề

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)