(VNTB) – Sự chênh lệch nông thôn-đô thị, phân biệt đối xử dân tộc, thể chế yếu kém, tăng trưởng kinh tế không đồng đều, tham nhũng, chênh lệch giáo dục và giới tính đã cùng nhau tạo ra một xã hội ngày càng phân cực.
Trên báo Tiếng Dân, Giáo sư Mạc Văn Trang đặt câu hỏi về tại sao GDP ngày càng tăng mà dân vẫn nghèo. Báo chí lề đảng cho rằng đất nước cần hãnh diện về quá trình “làm việc” của đảng để tăng trưởng GDP mỗi năm khoảng 6%, nhưng thực tế là thế nào?
Trong 50 năm qua, đất nước có tăng trưởng kinh tế đáng kể, nhưng đi kèm với đó là sự gia tăng bất bình đẳng xã hội và thu nhập. Sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn đang đe dọa thành quả phát triển. Tình trạng bất bình đẳng hiện nay là 10% người giàu nhất chiếm gần 40% tổng thu nhập cả nước, trong khi 40% người nghèo nhất chỉ kiếm được 15% thu nhập. Yếu tố nào dẫn đến phân rã xã hội và thu nhập?
Các Yếu Tố Cấu Trúc Làm Tăng Bất Bình Đẳng
Khoảng Cách Nông Thôn-Đô Thị và Sự Chênh Lệch Khu Vực
Một trong những yếu tố cấu trúc chính gây bất bình đẳng là sự chênh lệch sâu sắc giữa khu vực nông thôn và đô thị. Bất bình đẳng đặc biệt nghiêm trọng ở các khu vực đô thị, nơi chi phí sinh hoạt cao hơn và cơ hội việc làm khan hiếm hơn đối với những người có trình độ học vấn thấp. Sự chênh lệch giữa các tỉnh đóng góp tới 22% tổng bất bình đẳng, phản ánh mô hình phát triển không đồng đều.
Sự phân tách khu vực này không chỉ là địa lý mà còn được thể hiện trong các chính sách và cơ hội. Sự chuyển đổi cơ cấu đã dẫn đến tăng trưởng không đồng nhất giữa các khu vực, với lợi tức từ nông nghiệp và sản xuất chỉ tăng đối với 10-20% nhóm dân số giàu nhất. Những khác biệt trong tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập được thúc đẩy bởi sự khác biệt về tốc độ công nghiệp hóa giữa các khu vực và bởi các yếu tố cấu trúc như khả năng tiếp cận cảng biển.
Sự Chênh Lệch Dân Tộc và Phân Biệt Đối Xử
Bất bình đẳng giữa các nhóm dân tộc chiếm 15% tổng bất bình đẳng, cho thấy một yếu tố cấu trúc quan trọng khác. Khoảng cách thu nhập giữa người dân tộc thiểu số và người Kinh đáng kể, khoảng 3 triệu đồng mỗi người mỗi tháng, và khoảng cách này lớn hơn giữa dân tộc nông thôn và đô thị. Các nhóm dân tộc thiểu số, nông dân sản xuất nhỏ, người từ nông thôn di cư tìm việc ở các đô thị và người lao động phi chính thức có nhiều khả năng vẫn nghèo, bị loại trừ khỏi các dịch vụ và tham gia vào các quyết định chính trị, và tiếp tục đối mặt với phân biệt đối xử.
Yếu Kém Trong Thể Chế và Quản Trị
Các thể chế công được mô tả là “phân mảnh” với “quyền lực được phân chia theo cả chiều dọc và chiều ngang,” làm cho việc điều phối trở nên khó khăn. Điều này góp phần vào sự chênh lệch khu vực và hạn chế khả năng của chính phủ trong việc giải quyết bất bình đẳng một cách hiệu quả, nếu không nói là nhà nước không có ý chí để tâm giải quyết bất bình đẳng. Mối tương quan tiêu cực giữa thể chế và giảm nghèo đa chiều ở các khu vực đô thị và các tỉnh giàu gợi ý rằng thậm chí các khu vực giàu có cũng gặp khó khăn trong việc giảm bất bình đẳng do các vấn đề thể chế.
Chất lượng thể chế cũng điều chỉnh mối quan hệ giữa tiến bộ công nghệ và bất bình đẳng kinh tế. Ở các tỉnh và thành phố có chất lượng thể chế tốt hơn, sự thay đổi kỹ thuật có thể giảm bất bình đẳng thu nhập, nhưng điều ngược lại xảy ra khi thể chế yếu.
Các Yếu Tố Kinh Tế Đằng Sau Bất Bình Đẳng
Tăng Trưởng Kinh Tế Không Đồng Đều và Mô Hình Phát Triển
Mô hình phát triển kinh tế đã tạo ra tăng trưởng không đồng đều. Mặc dù nền kinh tế đã phát triển nhanh chóng, lợi ích chưa được phân phối đồng đều. Bất bình đẳng thu nhập có xu hướng tăng trong những giai đoạn đầu của phát triển kinh tế do các ngành lương thấp như nông nghiệp hoặc sản xuất không đuổi kịp mức thu nhập công nghệ hay các khu tập trung dịch vụ. Khi các quốc gia phát triển hơn, bất bình đẳng thu nhập bắt đầu giảm do cải thiện giáo dục, chăm sóc sức khỏe và chính sách tái phân phối, nhưng đảng đã cố tình duy trì thể chế độc quyền đảng trị, làm gia tăng bất bình đẳng hơn nữa trong cách quản lý toàn trị.
Với các nước đang phát triển như Việt Nam, ban đầu, từ một điểm khởi đầu thấp, công nghệ nâng cao có thể thu hẹp khoảng cách kinh tế, nhưng theo thời gian, công nghệ tiên tiến hơn có thể làm trầm trọng thêm chênh lệch thu nhập. Điều này phản ánh mô hình dựa vào công nghệ của Việt Nam, nơi một số khu vực tiếp thu công nghệ nhanh hơn những khu vực khác.
Khác Biệt Thu Nhập Theo Ngành
Cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam góp phần đáng kể vào bất bình đẳng thu nhập. Tiền lương và thu nhập kinh doanh phi nông nghiệp là hai yếu tố quyết định chính của bất bình đẳng thu nhập, với đóng góp của thu nhập tiền lương vào tổng bất bình đẳng thu nhập tăng lên 50% trong giai đoạn 2004-2014. Sự chuyển đổi cơ cấu từ nông nghiệp sang sản xuất và dịch vụ đã tạo ra thay đổi trong phân phối thu nhập.
Việc tham gia vào nông nghiệp và sản xuất mang lại thu nhập thấp hơn so với tham gia vào ngành dịch vụ, dẫn đến khoảng cách thu nhập giữa các nhóm lao động khác nhau. Điều này đặc biệt tác động đến dân ở các vùng nông thôn, nơi cơ hội phi nông nghiệp hạn chế.
Tiếp Cận Tài Chính và Tín Dụng Không Đồng Đều
Trong khi tín dụng thương mại làm tăng bất bình đẳng thu nhập, tín dụng chính sách lại giảm bất bình đẳng thu nhập. Tín dụng đầu do các ngân hàng thương mại cung cấp, thường dựa trên các tiêu chí như khả năng trả nợ, lịch sử tín dụng, và tài sản đảm bảo, thường tập trung vào những người có khả năng tài chính tốt hơn, như doanh nghiệp lớn hoặc cá nhân có thu nhập cao. Trái lại, tín dụng chính sách do chính phủ hoặc các tổ chức tài chính công cung cấp, thường nhằm mục đích hỗ trợ các nhóm yếu thế như người nghèo, nông dân, hoặc các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tác động không đối xứng của các loại tín dụng khác nhau ở quê nhà không được điều chỉnh để giảm bất bình đẳng.
Hơn nữa, tác động của tín dụng chính sách đối với bất bình đẳng thu nhập được điều kiện hóa bởi chất lượng thể chế và trình độ giáo dục, cả hai thứ đều yếu kém đi trong những năm gần đây. Điều này cho thấy tầm quan trọng của các cải cách thể chế và đầu tư vào giáo dục để tối đa hóa lợi ích của các chương trình tín dụng chính sách nhằm giảm bất bình đẳng.
Các Yếu Tố Xã Hội Làm Tăng Bất Bình Đẳng
Chênh Lệch Giáo Dục và Vốn Con Người
Giáo dục là một yếu tố xã hội quan trọng ảnh hưởng đến bất bình đẳng. Tỷ lệ dân số biết chữ từ 15 tuổi trở lên và tỷ lệ người lao động được đào tạo từ 15 tuổi trở lên có tác động đáng kể đến bất bình đẳng thu nhập. Mặc dù giáo dục có tiềm năng lớn trong việc cải thiện khả năng di động xã hội và chống lại bất bình đẳng cực đoan, tiến bộ không đồng đều. Trẻ em gái, dân tộc thiểu số và người nghèo không có nhiều cơ hội từ học tập.
Vốn con người xác định mức độ tiếp thu công nghệ cũng như dẫn đến sự khác biệt về năng suất và sau đó tạo ra khoảng cách tiền lương. Ở các tỉnh và thành phố có tỷ lệ lao động có kỹ năng cao hơn và thay đổi kỹ thuật có thể giảm chênh lệch thu nhập. Hai yếu tố này phản ánh tầm quan trọng của giáo dục trong việc đảm bảo tiến bộ công nghệ làm giảm chứ không phải làm tăng bất bình đẳng.
Bất Bình Đẳng Giới
Bất bình đẳng nam nữ là một yếu tố xã hội lớn góp phần vào bất bình đẳng tổng thể. Lao động nữ thường thiếu kỹ năng, không được đào tạo và bị giới hạn trong công việc lao động chân tay và lương thấp. Lao động nam kiếm được trung bình 33% nhiều hơn so với lao động nữ tương đương. Nam giới cũng có nhiều quyền kiểm soát hơn đối với đất đai và các tài sản có giá trị khác.
Sự thiếu vắng phụ nữ ở các vị trí hàng đầu trong kinh doanh và chính trị có nghĩa là các quy tắc ít có khả năng thay đổi có lợi cho họ. Trong chính phủ hiện tại, chỉ có một trong số 20 bộ trưởng là nữ. Mặc dù Việt Nam tương đối tốt về mức lương tối thiểu và quyền của phụ nữ so với các nước láng giềng, sự bất bình đẳng giới cơ bản vẫn tồn tại.
Bảo Trợ Xã Hội và Dịch Vụ Công Còn Hạn Chế
Khả năng tiếp cận dịch vụ công và bảo trợ xã hội không đồng đều góp phần đáng kể vào bất bình đẳng. Vấn đề chi tiêu tự túc trong chăm sóc sức khỏe đặc biệt đáng lo ngại. Vào năm 2012, lên đến 583.724 hộ gia đình bị đẩy vào hoặc sâu hơn vào nghèo đói do chi phí y tế. Các nhóm dân tộc thiểu số cũng có khả năng tiếp cận hạn chế các dịch vụ y tế, phần lớn do thu nhập thấp hơn và do phân biệt đối xử.
“Xã hội hóa” mà nhà nước nói thực ra là tư nhân hóa dịch vụ công, đã được mô tả như một nhãn tiến bộ cho nhiều loại phí và lệ phí trong y tế và giáo dục đang mở rộng. Điều này thực sự làm trầm trọng thêm bất bình đẳng, gây ra phân biệt đối xử và dẫn đến tham nhũng và hối lộ. Những khoản phí này tương đương với một loại thuế lũy thoái, nơi người nghèo nhất bị phạt vì tiếp cận quyền giáo dục và chăm sóc sức khỏe của họ.
Các Yếu Tố Thủ Tục Đằng Sau Bất Bình Đẳng
Tham Nhũng và Thiếu Minh Bạch
Tham nhũng khu vực công có gốc rễ sâu xa và phổ biến. Nó biểu hiện dưới nhiều hình thức, bao gồm hối lộ, tham ô và chủ nghĩa thân hữu, xâm nhập các cơ quan chính phủ ở các cấp khác nhau. Trên Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng 2021, Việt Nam đạt 39/100 điểm và xếp hạng 87/180 quốc gia, cho thấy vấn đề tham nhũng rất đáng kể.
Tham nhũng dẫn đến phân bổ sai nguồn lực và giảm năng suất và khả năng cạnh tranh, đồng thời làm trầm trọng thêm nghèo đói và bất bình đẳng. Những yếu kém hệ thống trong cơ cấu quản trị góp phần đáng kể vào tình trạng hối lộ và tham ô. Khoảng trống trong khuôn khổ quy định, thực thi lỏng lẻo luật chống tham nhũng và các mạng nhện tham nhũng lan tràn ở mọi tỉnh tạo ra một môi trường nơi các hoạt động tham nhũng có thể phát triển mà không sợ hậu quả. Một thiểu số cầm quyền ăn cắp của công, ăn cắp cơ hội trong khi đại đa số dân nghèo đi.
Quản Trị Yếu và Thực Hiện Chính Sách Kém Hiệu Quả
Điều phối giữa các cơ quan và giữa các tỉnh yếu kém, và các cơ quan cấp cao gặp khó khăn trong việc thực thi quy tắc và điều hành hành động ở các cấp thấp hơn của bộ máy hành chính. Điều này hạn chế hiệu quả của các chính sách nhằm giảm bất bình đẳng. Các chính sách được thiết kế để giảm nghèo cho người dân tộc thiểu số ở các huyện nghèo nhất được phát hiện là có hiệu quả và hiệu suất hạn chế, không có sự tham gia, và không đáp ứng nhu cầu của các nhóm này. Hơn nữa, cán bộ lợi dụng cơ hội trong các chính sách này để lũng đoạn tiền và nguồn lực lý ra phân bổ cho dân thiểu số.
Quyền lực ra quyết định được phân chia theo chiều ngang giữa các cơ quan và theo chiều dọc giữa trung ương và các tỉnh, tạo ra thách thức trong việc thực hiện cải cách toàn diện. Thiếu kiểm soát về quyền lực và hoàn toàn thiếu vắng những đối trọng mạnh mẽ với giới quyền lực dẫn đến việc những người giàu và đặc quyền tạo ra các quy tắc và chính sách có lợi cho họ.
Sự Tham Gia và Tiếng Nói Dân Sự Có Giới Hạn
Các nhóm bị thiệt thòi thiếu tiếp cận thông tin và hiểu biết về quyền của họ, và có mức độ tham gia thấp trong bỏ phiếu và các quy trình ra quyết định. Công dân thiếu thông tin và kỹ năng để hiểu các vấn đề thuế và ngân sách, và cảm thấy họ không có quyền tham gia vào các quy trình như vậy. Phụ nữ đặc biệt thường bị loại trừ khỏi việc có tiếng nói trong huy động, phân bổ và chi tiêu ngân sách nhà nước.
Người lao động di cư vào các khu vực đông dân bị loại trừ khỏi các quy trình lập kế hoạch ở các khu vực họ sống và làm việc, do đó khiến họ khó tiếp cận các dịch vụ cơ bản và bảo trợ xã hội hơn. Việt Nam cũng đạt điểm thấp về quyền lao động vì không cho phép người lao động tổ chức công đoàn độc lập, hạn chế thêm khả năng của họ để vận động cho lợi ích kinh tế.
Cơ Chế Tái Phân Phối Không Hiệu Quả
Mặc dù Việt Nam đã thực hiện các chương trình như bảo đảm mức sống tối thiểu vào năm 2014, những nỗ lực này chưa đủ để thu hẹp đáng kể khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Tái phân phối hiện tại thực sự tạo ra kết quả hỗn hợp, giảm bất bình đẳng trong nhóm đối với cư dân đô thị trong khi đồng thời mở rộng khoảng cách thu nhập giữa cư dân đô thị, cư dân nông thôn và người di cư vào thành phố.
Các chính sách thuế cũng chưa đạt được hiệu quả trong việc tái phân phối thu nhập. Vấn đề với trốn thuế, đặc biệt là trong số những người có thu nhập cao, hạn chế khả năng của chính phủ trong việc thu doanh thu từ những người có khả năng chi trả nhất. Ngoài ra, “thu nhập xám” vẫn ẩn khỏi thống kê chính thức, chủ yếu được nắm giữ bởi các nhóm thu nhập cao, làm phức tạp thêm nỗ lực tái phân phối. Tác động của chính sách thuế đối với bất bình đẳng chỉ bằng 1/20 tác động của chi tiêu về mặt độ lớn để giảm bất bình đẳng, cho thấy cần cải cách thuế tiến bộ hơn.
Kết Luận
Sự gia tăng bất bình đẳng xã hội và thu nhập là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa các yếu tố cấu trúc, kinh tế, xã hội và thủ tục. Sự chênh lệch nông thôn-đô thị, phân biệt đối xử dân tộc, thể chế yếu kém, tăng trưởng kinh tế không đồng đều, chênh lệch giáo dục và giới tính, tham nhũng và cơ chế tái phân phối không hiệu quả đã cùng nhau tạo ra một xã hội ngày càng phân cực.
Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong một số lĩnh vực chính sách để chống lại bất bình đẳng, đặc biệt là chi tiêu y tế và bảo trợ xã hội, mức độ thuế cao và thúc đẩy quyền lao động của phụ nữ, vẫn cần nhiều cải cách để giải quyết những yếu tố cơ bản này. Tiến bộ bền vững đòi hỏi cải cách toàn diện và phối hợp để đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong tương lai mang lại lợi ích cho tất cả người dân, không chỉ những người có đặc quyền nhất.