Việt Nam Thời Báo

VNTB- Ba sĩ quan hải quân Trung Quốc có thể vừa tiết lộ điều Bắc Kinh muốn ở Biển Đông

Ryan
Martinson và Katsuya Yamamoto, The National Interest
, ngày 9/7/2017

(Bản dịch của
Quốc Ngữ
)
(VNTB) – Bài viết đưa ra một cái
nhìn rất hiếm hoi về cách mà hải quân Trung Quốc hiểu các mục tiêu quốc gia ở
đây, xây dựng chiến lược riêng của mình và đánh giá các lựa chọn trong tương
lai.

Chiến lược của Trung Quốc ở Biển
Đông đang mở rộng theo hướng tăng dần theo kế hoạch và hiện thực theo định hướng.
Đầu năm nay, Kyodo News xuất bản
một bản tóm lược về một bài báo của Trung Quốc mà dường như cung cấp những hiểu
biết hiếm hoi về ý định của Bắc Kinh ở Biển Đông. Thật không may, bài báo của
Kyodo quá mơ hồ để được đánh giá cao, hoặc nhớ lâu. Chúng tôi đã xem lại bản gốc
và thấy rằng nó rất đáng xem.
Bài báo xuất phát từ một ấn phẩm
đặc biệt phát hành nội bộ của quân đội Trung Quốc. Đây không phải là tài liệu mật.
Thay vào đó, chúng là tài liệu giảng dạy và là ấn phẩm học thuật được viết cho
một đối tượng được chọn. Chúng cung cấp cái nhìn sâu sắc vô giá vào suy nghĩ của
quân đội Trung Quốc và đảng-nhà nước Trung Hoa.
Bài báo đặc biệt này đã được in
trong một ấn phẩm về Nghiên cứu Hải quân vào giữa năm 2016, một trong những tạp
chí phân phát “nội bộ” quan trọng nhất về các vấn đề hàng hải ở Trung
Quốc. Được điều hành bởi Viện Nghiên cứu Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân
(PLA), Nghiên cứu Hải quân là một tạp chí khoa học xuất bản hai tháng một lần về
những nghiên cứu thuộc chiến lược hải quân.
Bài báo có tiêu đề “Các cuộc
khủng hoảng quân sự ở Biển Đông: Phân tích, Đánh giá và Phản ứng”. Được viết
bởi ba sĩ quan hải quân Trung Quốc: Trung tá Jin Jing, một nhà nghiên cứu thuộc
Viện Nghiên cứu Hải quân và hai sỹ quan chính trị Xu Hui và Wang Ning của Hạm đội
Nam Hải. Chúng tôi giả định rằng những phân tích bởi ba sỹ quan cấp trung trong
diễn đàn này là chính thống, trung thực và mang tính thông báo cao.
Bài báo bao gồm ba phần. Phần một
phân tích tình hình hiện tại ở Biển Đông, cung cấp bối cảnh cho cuộc thảo luận
về các cuộc khủng hoảng quân sự trong tương lai. Phần hai xem xét các đặc điểm
có thể xảy ra của bất kỳ cuộc khủng hoảng nào. Bài báo kết luận với các khuyến
nghị chính sách.
Jin, Xu và Wang bắt đầu với bối cảnh
chiến lược. Tương tự như các phân tích được xuất bản trong các nguồn mở, họ đổ
lỗi cho Hoa Kỳ về nhiều căng thẳng ở Biển Đông. Kể từ năm 2015, các tác giả viết,
quân đội Hoa Kỳ đã tăng cường hành vi khiêu khích gần các vị trí chiếm đóng của
Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa – một nhóm đảo lớn mà Trung Quốc, Philippines, Việt
Nam, Malaysia, Đài Loan và Brunei tuyên bố chủ quyền (toàn bộ hoặc một phần).
Hoa Kỳ đã dùng tàu tuần tra, máy bay ném bom và tàu tàu ngầm cùng với
“lũng đoạn truyền thông” để làm mất uy tín Bắc Kinh. Được thiết kế để
“thăm dò” giới hạn chịu đựng của Trung Quốc, các hoạt động này đã có
một “tác động xấu đến tình hình an ninh ở Biển Đông”. Các tác giả viết,
Hoa Kỳ từ lâu đã “mắc kẹt vào” vấn đề Biển Đông. Nhưng trong nhiều
năm, Hoa Kỳ chỉ can thiệp từ phía sau hậu trường. Washington không công khai
tuyên bố ủng hộ bên nào trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông. Các hoạt động quân sự
của Hoa Kỳ ở những vùng nước này luôn luôn hạn chế. Tuy nhiên, từ năm 2015,
“sự cân bằng quân sự” ở Biển Đông đã dần dần “nghiêng về phía
Trung Quốc”. Do đó, Hoa Kỳ đã trở nên “bồn chồn” và quyết đoán
hơn.
Sáng kiến Một Vành đai- Một Con
đường cũng làm người Mỹ kích động. Trích dẫn một cuốn sách do Zbigniew
Brzezinski xuất bản, họ cho rằng nhiệm vụ chính của chiến lược của Mỹ trong thế
kỷ 21 là để ngăn chặn sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào có thể “thách
thức quyền bá chủ của Mỹ trên lục địa Á-Âu”. Như vậy, Sáng kiến  ​​ Một Vành đai- Một Con đường của Trung Quốc,
một kế hoạch mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc trên khắp Âu Á – chắc chắn sẽ
“chạm vào lòng tự ái của một nước Mỹ vốn luôn bá chủ hoàn cầu. Là một phân
khúc quan trọng và phức tạp trong con đường tơ lụa hàng đầu thế kỷ 21, thì Biển
Đông là mục tiêu tốt cho việc lật đổ Hoa Kỳ.
Trong tương lai, Trung Quốc có thể
có những xung đột căng thẳng với quân đội Hoa Kỳ, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản
(mà có sự liên quan trực tiếp đến Biển Đông là “không thể tránh khỏi”)
và các quốc gia Đông Nam Á. Các tác giả khảo sát những tiến triển này và kết luận
rằng có một “khả năng cao” về một cuộc khủng hoảng hàng hải ở Biển
Đông. Điểm này hầu như không gây tranh cãi.
Điều đáng chú ý là các tác giả cực
kỳ lạc quan về một cuộc khủng hoảng như thế có thể diễn ra như thế nào. Theo
quan điểm của họ, quy mô và cường độ của bất kỳ cuộc khủng hoảng nào trong
tương lai có thể bị kiểm soát, và “khả năng xảy ra cuộc khủng hoảng gây ra
cuộc xung đột quân sự hay chiến tranh không hề lớn.” Quan hệ Mỹ-Trung sẽ
tiếp tục được đặc trưng bởi khuynh hướng “đấu tranh mà không chia rẽ.”
Hai nước giữ vững mối quan hệ và các mối quan tâm chung trong các lĩnh vực quan
trọng: kinh tế, chính trị và các vấn đề toàn cầu. Những liên kết này sẽ ngăn chặn
sự leo thang khủng hoảng. Cũng như trên, các tác giả chỉ ra rằng trong các cuộc
đụng độ trên biển, quân đội của cả hai bên đều kiềm chế.
Không bên nào muốn xảy ra một cuộc
xung đột quân sự. Trung Quốc sẽ tiếp tục chiến lược cân bằng các hoạt động bảo
vệ quyền tự quyết với các hành động để duy trì sự ổn định trong quan hệ với các
quốc gia khác. Nước này sẽ không cho phép các vấn đề vượt ra khỏi tầm kiểm
soát. Xét cho cùng, Trung Quốc cần thời gian để “tiêu hóa và củng cố”
những quyền lợi mà nó có được gần đây ở Biển Đông. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc
không muốn nhìn thấy một cuộc khủng hoảng quân sự leo thang thành một cuộc chiến
tranh, vì nó có thể đe dọa “thời kỳ cơ hội chiến lược” hiện nay để tập
trung vào các vấn đề trong nước.
Các tác giả cho rằng Hoa Kỳ sẽ vẫn
trung lập về các tranh chấp Biển Đông. Washington chỉ đơn thuần là nhằm đảm bảo
tự do hàng hải và duy trì tư thế ngăn chặn. Hơn nữa, Hoa Kỳ vẫn chưa có khả
năng chiến đấu: “Tái cân bằng ở châu Á” vẫn còn chưa hoàn thiện.
Trong khi đó, các quốc gia nhỏ ở Biển Đông không muốn tham dự vào một cuộc xung
đột quân sự. Với các cơ sở mới được xây dựng trên quần đảo Trường Sa, Trung Quốc
đã đạt được sáng kiến ​​chiến lược. Điều này đã dẫn đến “một tác động ngăn
chặn nhất định đối với các quốc gia khác cũng có yêu sách ở Biển Đông”.
Tóm lại, xung đột vũ trang ở Biển Đông có thể bị loại trừ.
Phần hai xem xét một số kịch bản
cụ thể mà Trung Quốc có thể gặp phải. Bất kỳ cuộc khủng hoảng nào cũng có thể
liên quan đến một số quốc gia, bao gồm những nước có tuyên bố chủ quyền và cả
những nước ngoài khu vực. Ngoài Hoa Kỳ và Nhật Bản, các tác giả tin rằng Ấn Độ
và Úc cũng có thể dính líu trong một cuộc khủng hoảng. Các quốc gia này sẽ nắm
bắt cơ hội để kiềm chế, đàn áp và đối đầu Trung Quốc.
Trong phần cuối của bài báo, Jin,
Xu và Vương phác thảo một số bước mà Trung Quốc nên thực hiện để tăng cường khả
năng xử lý khủng hoảng trong tương lai. Thứ nhất, cần sử dụng các biện pháp
chính trị, kinh tế và ngoại giao để cải thiện quan hệ với các quốc gia Đông Nam
Á, qua đó chia rẽ và phá vỡ bất kỳ liên minh tiềm năng nào chống lại Trung Quốc,
tạo ra một môi trường chiến lược thuận lợi và giảm bớt nguy cơ xảy ra khủng hoảng.
Đây là phần mềm của chiến lược Trung Quốc. Đồng thời, Trung Quốc nên làm các bước
để làm nổi bật các giới hạn đỏ, thực hiện những hành động biểu dương sức mạnh
và tiến hành nhiều biện pháp cưỡng chế khác để ngăn chặn không cho các cuộc khủng
hoảng quân sự xảy ra.
Các tác giả đã sẵn sàng thừa nhận
những gì các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã giấu công chúng: “cuộc chiến ở Biển
Đông không chỉ là tranh chấp về quyền và lợi ích. Hơn nữa, đó là một cuộc đấu
tranh cho sự thống trị trong các vấn đề an ninh khu vực.” Với vị thế của mình,
Trung Quốc nên sử dụng tất cả các phương tiện có thể sử dụng – chính trị, kinh
tế, ngoại giao, pháp lý, dư luận và quân sự.
Jin, Xu và Wang xác nhận cách tiếp
cận hiện tại của Trung Quốc trong việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Họ
mô tả nó như là ” nguyên tắc và linh hoạt”. Cụm từ này đặt ở dấu ngoặc
kép, gợi ý nguồn gốc học thuyết. Các hành động để khẳng định các đặc quyền của
Trung Quốc phải vẫn ở trong “sự cân bằng năng động” với những hành động
được thiết kế để làm dịu căng thẳng. Đây là hành động cân bằng tuyệt vời mà từ
lâu đã là trọng tâm của chiến lược tranh chấp hàng hải ở Trung Quốc và giải
thích sự không phù hợp và sự thay đổi trong hành vi của Trung Quốc.
Chiến lược của Trung Quốc phải chủ
động. Theo các tác giả, Trung Quốc nên tiếp tục tham gia vào cái mà họ gọi là
chiến tranh kéo dài. Bằng cách này, chúng có nghĩa là theo đuổi một cuộc đấu
“dài hạn, kiên nhẫn và toàn diện để làm chủ sáng kiến ​​chiến lược.”
Các xu hướng ủng hộ Trung Quốc. Theo quan điểm của họ, “sau khi mở rộng
các cơ sở của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã có một vị thế ​​nhất
định về an ninh quân sự. Điều này đảm bảo cho các điều kiện để Trung Quốc tiếp
tục chiến lược hiện tại của mình trong việc đưa các lực lượng đánh bắt, dầu khí
và lực lượng thực thi hàng hải lên hàng đầu, mà các tác giả đã miêu tả như là
“Gửi dân thường trước tiên, và theo họ là quân đội” và “che giấu
quân đội trong dân thường.”
Bài báo kết luận bằng cách nhắc
nhở bạn đọc rằng một cuộc khủng hoảng trong tương lai, nếu được giải quyết
đúng, có thể thực sự tạo ra những cơ hội mới. Những năm gần đây của Trung Quốc
tràn ngập những ví dụ như vậy. Jin, Xu và Wang giải thích rằng những cuộc đấu
tranh chống lại Nhật Bản gần quần đảo Senkaku và Philippines tại Scarborough
Shoal “cho thấy rằng chủ động sử dụng khủng hoảng và khai thác triệt để
các cuộc khủng hoảng, làm chủ các cuộc khủng hoảng và thậm chí chủ động sản xuất
khủng hoảng giúp Trung Quốc bảo vệ lợi ích của nó. Chỉ bằng cách áp dụng các biện
pháp chủ động, Trung Quốc có thể đạt được thắng lợi cuối cùng trong cuộc đấu
này.”
Các cuộc khủng hoảng đưa lại những
cái cớ để trừng phạt các quốc gia khác, một lợi ích khác không bị mất đối với
các tác giả. Jin, Hui và Wang đề nghị Trung Quốc “tấn công dữ dội những nước
khác khi nó bị thương.” Nói cho cùng, họ viết, một số nước có tuyên bố phải
bị tấn công để đe dọa nước khác và không cho các nước này đoàn kết, đó là mưu
“giết gà dọa khỉ.”
Cuối cùng, Trung Quốc nên đóng
vai trò tích cực trong các vấn đề an ninh phi truyền thống trong khu vực và các
nỗ lực cứu trợ thiên tai. Các tác giả viết, các hoạt động như vậy sẽ giúp
“hình thành một cơ chế an ninh và phối hợp giải quyết khủng hoảng do Trung
Quốc lãnh đạo ở Biển Đông. Cuối cùng, điều này cũng có thể giúp tạo ra các điều
kiện để giải quyết triệt để vấn đề Biển Đông.
Người đọc sẽ rút ra những kết luận
của mình từ phần tóm tắt trên. Đối với chúng tôi, bài báo này xác nhận rằng chiến
lược của Trung Quốc ở Biển Đông đang mở rộng theo hướng tăng dần theo kế hoạch
và hiện thực theo định hướng. Nó cũng xác nhận sự đánh giá rằng các cân nhắc
chiến lược của Bắc Kinh tập trung chủ yếu vào Hoa Kỳ – quốc gia duy nhất có thể
phá vỡ kế hoạch của Trung Quốc hoặc cạnh tranh với nó về ảnh hưởng khu vực mà
nó mong muốn. Bài viết này đưa ra rất ít thảo luận về những nước có yêu sách ở
Biển Đông, có lẽ vì sức mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế của Trung Quốc đã
cho họ ít lựa chọn.
Với bài báo này, chúng ta có được
những hiểu biết sâu sắc về lý do chiến lược đằng sau quyết định của Trung Quốc
để xây dựng các cơ sở mới ở Quần đảo Trường Sa, một chủ đề vẫn hiếm khi được
bàn luận rộng rãi ở Trung Quốc. Trong trường hợp Jin, Hui và Wang phản ánh suy
nghĩ chủ đạo của Hải quân Trung Quốc, quan điểm của họ cho thấy các căn cứ mới
luôn nhằm mục đích làm thay đổi cân bằng quân sự ở Biển Đông – bất kể các nhà
ngoại giao Trung Quốc muốn làm nổi bật tính chất dân sự của chúng. Các nhà hoạch
định chính sách của Trung Quốc có thể tin rằng sự cân bằng hiện nay đang
nghiêng về phía Trung Quốc, và điều này sẽ không thay đổi cho đến khi Mỹ hoàn
thành “cam kết” lớn của mình với châu Á nếu có.
Chúng ta có một số an ủi trong
mong muốn rõ ràng của bộ ba nhằm tránh xung đột vũ trang ở Biển Đông. Tuy
nhiên, thái độ của họ cho thấy quân đội Trung Quốc có thể là quá tự tin về khả
năng của mình trong việc quản lý một cuộc khủng hoảng quân sự trên biển. Đặc biệt
đáng lo ngại, Mỹ là đối thủ giả định, nhưng chưa bao giờ tác giả thậm chí đề cập
đến vai trò của vũ khí hạt nhân trong cuộc khủng hoảng.
Mặc dù bài viết này có một sự kết
hợp hiếm có của sự thẳng thắn và quyền lực, nó không đóng lại nhiệm vụ của chúng
tôi để hiểu ý định của Trung Quốc ở Biển Đông. Nó chỉ đại diện cho một nguồn
thông tin, ý định của Trung Quốc đang tiến triển, và Hải quân Trung Quốc không
phải là lực lực duy nhất hoạt động ở Biển Đông. Tuy nhiên, nó đưa ra một cái
nhìn rất hiếm hoi về cách mà hải quân Trung Quốc hiểu các mục tiêu quốc gia ở
đây, xây dựng chiến lược riêng của mình và đánh giá các lựa chọn trong tương
lai.
———————-
Ryan Martinson là trợ lý giáo sư tại Học viện Nghiên cứu Hàng hải Trung
Quốc của Đại học Hải quân Hoa Kỳ. CAPT Katsuya Yamamoto là sĩ quan liên lạc của
Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản (JMSDF) và là giáo sư quân sự quốc tế tại Trường Cao
đẳng Hải quân Hoa Kỳ. Các ý kiến ​​thể hiện không phản ánh các đánh giá của Hải
quân Hoa Kỳ hoặc của Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản.

Tin bài liên quan:

VNTB – Xin hỏi ông Trương Minh Tuấn

Phan Thanh Hung

Đồng Tâm, sau 45 ngày của hy vọng

Phan Thanh Hung

Người Việt ‘ganh tị’ vì Campuchia có bầu cử đa đảng

Phan Thanh Hung

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.