Huỳnh Anh Tú
(VNTB) – Cựu TNLT Huỳnh Anh Tú chia sẻ: “Chúng tôi kể lại những điều này không chỉ cho bản thân mình, mà còn cho những người đã chết – như em tôi, Huỳnh Anh Trí; ông Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại, Bùi Đăng Thủy, Đinh Đăng Định và nhiều người vô danh khác.”
Kính thưa quý vị!
Trước tiên, tôi xin cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội hiện diện tại đây hôm nay.
Thật khó để truyền tải chặng đường 14 năm tù đày chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Tôi đã ra tù gần 12 năm, có những điều đã phai mờ, nhưng cũng có những ký ức sẽ theo tôi suốt đời.
Tôi và em trai, Huỳnh Anh Trí, bị bắt đêm 30/12/1999. Ngay sau đó, chúng tôi bị tách ra và thẩm vấn riêng. Hơn mười viên an ninh thay nhau hỏi cung tôi suốt 72 giờ không ngừng nghỉ. Suốt ba ngày ba đêm, tôi không được ăn, không được ngủ. Mỗi khi mệt quá gục xuống, tôi lập tức bị họ kéo dậy bằng cách giật tóc hoặc hắt nước vào mặt.
Một trong số họ đánh tôi, những người khác thì chửi bới và đe dọa: nếu không nhận tội, tôi sẽ đối mặt với án 20 năm tù, hoặc chung thân, thậm chí tử hình.
Sang ngày thứ tư, tôi bị đưa vào buồng biệt giam rộng chừng 6 mét vuông, không cửa sổ, ăn uống và tiêu tiểu tại chỗ. Sau 72 giờ bị tra khảo liên tục, tôi tưởng rằng mình sẽ được nghỉ ngơi. Nhưng vừa thiếp đi, tôi nghe thấy những âm thanh man dại, tiếng tru tréo kinh hoàng vang lên trong đầu. Tôi cố bịt tai lại, nhưng âm thanh ấy càng lúc càng rợn người. Hai mươi sáu năm đã trôi qua, đôi khi âm thanh đó vẫn bất ngờ quay lại, khiến tôi hoảng loạn.
Tôi bị biệt giam khoảng một năm rưỡi trước khi ra tòa. Tám tháng đầu, tôi liên tục bị gọi cung lúc 1–2 giờ sáng. Gần sáng họ đưa tôi trở lại buồng, và chỉ vài tiếng sau lại có nhóm khác đến tiếp tục thẩm vấn. Chúng tôi gọi hình thức này là “xa luân chiến” – một người phải đấu trí với cả chục an ninh.
Tôi từng bị chuyển qua 5 nhà tù khác nhau, chưa kể các lần chuyển buồng, chuyển trại.
Ký ức ám ảnh nhất đối với tôi là ĐÓI, RẤT ĐÓI.
Không ai có thể sống nổi ngần ấy năm tù nếu chỉ dựa vào khẩu phần ăn của nhà tù cung cấp.
Chúng tôi sống được là nhờ sự đùm bọc của các tu sĩ Công giáo – những người bị bắt sau năm 1975 chỉ vì là linh mục. Đói và thèm ăn đến mức, có hôm tỉnh dậy, tôi thấy miệng mình dính thứ gì như chất bột màu trắng. Tôi chợt nhớ, đêm trước mình đã mơ được ăn no, và trong mơ tôi đã nhai thật – điều ấy giải thích vì sao quanh miệng tôi dính chất màu trắng vào sáng hôm sau.
Kính thưa quý vị!
Tôi và em trai bị kết án 14 năm tù. Cùng vụ còn 36 người khác, bị kết án từ 2 đến 20 năm. Gần 10 người đã chết vì đói, vì lao động khổ sai, vì bệnh tật không được chữa trị. Chưa kể những người chết trong các vụ án khác, như ông Nguyễn Minh Tân – hàng ngày vẫn lao động cuốc đất, nuôi cá, gặt lúa… nhưng chết vì không có gì để ăn.
Tù chính trị và cả tù hình sự đều phải lao động khổ sai, làm các công việc nặng nhọc như khai hoang, cuốc đất, đào ao, trồng rau… nhưng những năm đầu, chúng tôi chưa bao giờ được ăn những gì mình làm ra – dù chỉ là vài cọng rau. Nhiều khi, tôi phải hái cỏ non nấu lên ăn thay rau.
Chúng tôi nhiều lần tuyệt thực để phản đối ngược đãi, yêu cầu cai tù thực thi đúng chính sách, quy định do chính nhà nước đề ra. Cuộc tuyệt thực lâu nhất kéo dài 14 ngày tại trại giam Xuân Lộc, năm 2010, với hàng chục tù chính trị tham gia. Sau sự kiện đó, chúng tôi bị chuyển trại – tôi bị đưa về An Phước, tỉnh Bình Dương.
Thưa quý vị!
Mười bốn năm tù không chỉ là sự chịu đựng bi kịch của cá nhân mình, mà còn phải chứng kiến nỗi đau của biết bao người đồng cảnh. Tôi chưa từng thấy ai bị đánh đến chết, nhưng có nhiều người chết vì bị ngược đãi một cách tinh vi và có hệ thống. Ví dụ, người mắc bệnh tim mạch, cao huyết áp bị cấm mang thuốc – và họ chết, như ông Lê Thân, ông Phan Văn Trước. Nguồn nước bẩn, thực phẩm ôi thiu, bồn cầu hỏng không sửa…, từng chút một hủy hoại cơ thể tù nhân.
Tù đày không chỉ là tra tấn, bệnh tật, chết chóc – mà còn là sự cô lập tinh thần. Chúng tôi bị cách ly khỏi tù hình sự, bị kiểm soát mọi giao tiếp với nhau. Vì không được sử dụng giấy bút, không đuọc nhận sách báo nên chúng tôi không thể viết, không thể đọc, không thể ghi chép lại bất cứ điều gì tai nghe mắt thấy, hoặc chỉ đơn giản là viết về những cảm xúc của chính mình.
Không ít lần tôi có ý định tự tử và từng chuẩn bị một cái chết cho mình. Nhưng có một sức mạnh vô hình mà sau này tôi tin đó là Thiên Chúa, đã nâng đỡ tôi. Tôi phải sống để chiến thắng, chí ít là để không thất bại trước thế lực tà ác.
Thưa quý vị!
Chúng tôi kể lại những điều này không chỉ cho bản thân mình, mà còn cho những người đã chết – như em tôi, Huỳnh Anh Trí; ông Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại, Bùi Đăng Thủy, Đinh Đăng Định và nhiều người vô danh khác.
Chúng tôi kể thay cho những người vẫn đang bị giam giữ – những người không có cơ hội cất tiếng nói của chính mình.
Tôi mong rằng quý vị – những tiếng nói mạnh mẽ vì tự do, vì nhân quyền – sẽ không quên những nơi còn trong bóng tối, những con người vẫn đang chịu cảnh tù đày vì tranh đấu cho tự do.
Xin chân thành cảm ơn quý vị!
_____________________
BẢN TIẾNG ANH
SPEECH BY FORMER PRISONER OF CONSCIENCE HUYNH ANH TU
ON VIETNAM HUMAN RIGHTS DAY 2025
Ladies and Gentlemen,
First, I would like to thank you for giving me the opportunity to be here today.
It is difficult to convey the full reality of 14 years in prison in just a few short minutes. I’ve been released for nearly 12 years now. Some memories have faded—but others will stay with me for the rest of my life.
My younger brother, Huynh Anh Tri, and I were arrested on the night of December 30, 1999. Immediately after, we were separated and interrogated individually. More than ten security officers took turns questioning me for 72 hours non-stop. For three days and three nights, I was not allowed to eat or sleep. Every time I collapsed from exhaustion, they would yank me up by the hair or throw water in my face.
One officer beat me while others cursed and threatened me—saying if I didn’t confess, I would face 20 years, life imprisonment, or even the death penalty.
On the fourth day, I was thrown into a solitary cell, about six square meters wide, without windows. I had to eat, drink, and relieve myself in that same space. After 72 hours of nonstop interrogation, I thought I would finally get to rest. But as I drifted off to sleep, terrifying sounds filled my head—wild shrieks and howls that seemed to come from inside my skull. I tried covering my ears, but the sounds only grew louder. Even now, 26 years later, those sounds sometimes return, sending me into a panic.
I was held in solitary confinement for about a year and a half before ever seeing a courtroom. For the first eight months, I was frequently called in for interrogation at 1 or 2 a.m. Near dawn, they’d return me to my cell—only for a different group to come in a few hours later to continue the questioning. We called this method “rotational assault”—one prisoner mentally battling dozens of security officers.
I was transferred through five different prisons—not counting all the times I was moved between cells and camps.
But the most haunting memory of all was hunger. Deep, gnawing hunger.
No one could survive so many years in prison on the state’s food rations alone.
We survived thanks to the care and sharing of Catholic priests—many of whom had been jailed after 1975 simply for being clergy. I was so hungry, I once woke up to find a white powdery substance around my mouth. Then I remembered—I had dreamed about eating a full meal, and I had been chewing in my sleep. That explained the white residue around my lips the next morning.
Ladies and Gentlemen,
My brother and I were sentenced to 14 years in prison. Alongside us, 36 others were tried in the same case—sentenced to between 2 and 20 years. Nearly ten of them died from starvation, forced labor, or untreated illness. And that’s not counting those who died in other cases—like Mr. Nguyen Minh Tan, who worked every day farming, digging, raising fish… and yet died because there was nothing to eat.
Both political and criminal prisoners were subjected to forced labor. I did everything from clearing land, digging ponds, to growing vegetables. But we were never allowed to eat what we produced—not even a single leaf. We had to gather wild grass and cook it as substitute greens.
We went on hunger strikes many times to protest mistreatment and demand that prison authorities follow their own policies. The longest hunger strike I took part in lasted 14 days, at Xuan Loc Prison in 2010, with dozens of political prisoners participating. After that, we were transferred—I was sent to An Phuoc Prison in Binh Duong Province.
Dear friends,
Fourteen years in prison meant not only enduring personal hardship but also witnessing the suffering of many others in the same plight. I never saw anyone beaten to death—but I saw many die from more subtle, systematic abuse. For example, those with heart disease or high blood pressure were denied their medication—and they died, like Mr. Le Than and Mr. Phan Van Truoc. Dirty water, rotten food, broken toilets left unrepaired—these slowly destroyed our bodies, bit by bit.
Prison was not just about torture, disease, and death—it was also a campaign of psychological isolation. We were kept separate from criminal inmates, and all communication between us was tightly controlled. Denied pens and paper, we couldn’t write. We weren’t allowed books or newspapers, so we couldn’t read or record anything we saw, heard, or felt—not even our own emotions.
Many times, I contemplated suicide. I even prepared for it. But there was an invisible strength—something I later came to believe was God—that lifted me up. I had to live, if only to not be defeated by the forces of evil.
Ladies and Gentlemen,
We share these stories not only for ourselves, but for those who have died—like my brother, Huynh Anh Tri; Mr. Truong Van Suong, Nguyen Van Trai, Bui Dang Thuy, Dinh Dang Dinh, and so many others whose names you may never know.
We speak on behalf of those still behind bars—those who have no voice.
I hope that you—voices of freedom and human rights—will not forget the places still shrouded in darkness, or the people who are still suffering in prison for daring to fight for liberty.
Thank you very much.