Nguyễn Huỳnh
(VNTB) – Một mạng lưới các tổ chức xã hội dân sự mạnh, có điều kiện hoạt động thuận lợi, có tính liên kết tốt cũng là một yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân ở một quốc gia.
Nếu không ngại bụ chụp chiếc mũ chính trị về “tự diễn biến – tự chuyển hóa”, thì xét các yếu tố về hành lang pháp lý hiện tại một cách khách quan, có thể khẳng định rằng ở Việt Nam hiện chưa có bất cứ thiết chế nào thực sự tin cậy và hiệu quả trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Bởi vậy, việc hoàn thiện, thúc đẩy cơ chế này là rất cần thiết. Việc sửa đổi hiến pháp liên quan hầu như đến tất cả các yếu tố nêu trên (trừ việc chấp nhận thẩm quyền tài phán của các cơ chế nhân quyền khu vực và quốc tế). Cụ thể, để hoàn thiện cơ chế bảo vệ nhân quyền, Hiến pháp 2013 cần sửa đổi cần quy định và bảo vệ sự độc lập của hệ thống tư pháp; thành lập toà án hiến pháp thay cho hội đồng hiến pháp; đồng thời củng cố, mở rộng các quyền tự do về dân sự, chính trị để tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự.
Những sửa đổi nêu trên là rất cần thiết và quan trọng, bởi lẽ lịch sử nhân loại đã cho thấy rằng, thiếu sót trong việc hiến định các cơ chế bảo vệ quyền trong nhiều trường hợp còn nguy hại hơn nhiều thiếu sót trong việc hiến định nội dung các quyền.
Những thiếu sót trong việc hiến định các cơ chế bảo vệ quyền có thể dẫn tới việc diễn giải tuỳ tiện, bỏ qua hoặc lợi dụng hiến pháp nhằm thực hiện những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng một cách rộng khắp và liên tục, gây ra những tổn thất không thể lường được với người dân, xã hội và với đất nước.
Có thể lấy hai bài học cùng về nước Đức để minh chứng cho điều này.
Trước thế chiến thứ hai, kẽ hở của hiến pháp đã tạo cơ hội cho chính quyền Adolf Hitler ban hành bản “Nghị định cho việc Bảo vệ Nhân dân và Nhà nước” (sau khi dựng lên vụ đốt toà nhà Nghị viện nổi tiếng vào năm 1933). Nghị định cho phép đình chỉ áp dụng bảy mục trong hiến pháp, tất cả đều về các quyền tự do cá nhân, bao gồm tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội, quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện tín, điện thoại, nhà ở và quyền sở hữu tư nhân về tài sản.
Với công cụ pháp lý là bản Nghị định này, lực lượng mật vụ Gestapo đã bắt giữ, tra tấn, giết hại và khủng bố hàng triệu người là các đảng viên cộng sản, lực lượng cánh tả, những người theo quan điểm xã hội, người Do Thái và tất cả những ai không đồng tình với chủ nghĩa phát xít, kể cả những người đang phục vụ trong quân đội và bộ máy nhà nước Đức lúc bấy giờ.
Việc “dọn sạch” nước Đức đã tạo điều kiện cho đảng phát-xít phát động cuộc chiến tranh thế giới thứ hai – thảm hoạ nhân quyền lớn nhất từ trước đến nay của nhân loại.
Đáng tiếc là sau đó, nhà nước XHCN ở Đông Đức đã “quên’ không học một phần bài học cũ. Kẽ hở hiến pháp đã tạo điều kiện cho bộ máy mẫn cán và chuyên nghiệp của cơ quan mật vụ Stasi thiết lập ra một hệ thống theo dõi, giám sát công dân khổng lồ nổi tiếng toàn thế giới, với hàng triệu chỉ điểm viên và một thư khố hồ sơ kéo dài hàng trăm ki-lô-mét. Điều đó cho thấy ở Stasi, người ta không hề đếm xỉa gì đến quyền hiến định về bí mật đời tư, thư tín, điện thoại, gia đình hay nơi ở.
Điều đáng nói là mặc dù đều nổi tiếng về hiệu quả, song cả Gestapo và Stasi đều đã không giúp duy trì, mà ngược lại, là một tác nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của hai nhà nước Đức mà chúng là một bộ phận cấu thành.
Như vậy, câu chuyện về các cơ quan mật vụ này đồng thời cho thấy nhiều sự thật: một hiến pháp sơ hở có thể gây hậu quả nguy hại như thế nào với việc bảo vệ nhân quyền; một chế độ phản nhân quyền sẽ có kết cục bi thảm tất yếu như thế nào, và một cơ chế bảo vệ nhân quyền lỏng lẻo có thể dẫn đến hậu quả như thế nào với sự tồn tại của một nhà nước cũng như sự phát triển của một dân tộc.
Bóng dáng của câu chuyện lịch sử kể trên, dường như cũng đang ít nhiều hiện diện trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam.