VNTB – Champa ( Chiêm Thành)

VNTB – Champa ( Chiêm Thành)

Đan Tâm

 

Lịch sử VN chỉ ghi nhận & nghiên cứu nhiều về xứ Champa (Chiêm Thành) từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào cai trị đất Thuận – Quảng lập ra xứ Đàng Trong. Cả nghìn năm trước khi hình thành xứ Đàng Trong của Đại Việt, những đặc tính của vương quốc Champa [2] cổ vẫn luôn luôn tồn tại. Nhưng từ khi xứ Đàng Trong của các Chúa Nguyễn thì di sản Champa dần dần trộn lẫn vào văn hóa Việt để xây dựng nên các đặc thù của xứ Đàng Trong, trong đó có cả những thiết chế chính trị [3], hoặc biến thể do ảnh hưởng văn hóa Việt. 

Đó là những thiết chế được manh nha từ thời kỳ hình thành các nhà nước tiền Champa, được củng cố trong suốt thời kỳ tồn tại của vương quốc Champa, được tiếp thu và vận dụng linh hoạt dưới thời kỳ các chúa Nguyễn. Vương quốc Champa, một vương quốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tiến trình lịch sử miền Trung & Nam Việt Nam từ cổ đại đến trung đại.

Khu di tích Thánh địa Mỹ Sơn, Quảng Nam

Dựa trên các bia ký viết bằng chữ Phạn và chữ Chăm cổ [4], các biên niên sử của Trung Hoa và Việt Nam có đề cập đến Champa [5], các thư tịch cổ bằng giấy hoặc lá buông của người Chăm viết bằng chữ Chăm đương đại hiện được lưu giữ trong các gia đình người Chăm hoặc được lưu trữ tại các bảo tàng, thư viện trong và ngoài nước [6], Étienne Aymonier là một trong những nhà Champa học đầu tiên đã có những tiếp cận và so sánh giữa các nguồn tư liệu như văn bia và thư tịch Chăm để nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ của người Chăm. Tác phẩm của Aymonier là một chuyên khảo đầy đủ về biên niên sử hoàng gia Chăm, một tư liệu lịch sử nằm trong nhóm thư tịch chép tay của người Chăm [7]

Năm 1905, trong một bài viết đăng trên tập san của trường Viễn Đông Bác cổ của E. Durand [8] cho thấy trong thực tế có đến hai vương triều Champa trong lịch sử: một đóng đô ở phía Bắc, một đóng đô ở phía Nam. Năm 1928, G. Maspero xuất bản một công trình nghiên cứu về Champa nhưng dựa vào các văn bia và biên niên sử của Trung Hoa, Đại Việt, chứ không hề sử dụng các thư tịch Chăm, trong đó có Biên niên sử hoàng gia Chăm, cũng không để ý đến giả thuyết mà Durand đã nêu ra [10]

Cũng vì thế, Maspero chỉ đề cập đến lịch sử Champa thông qua các vương triều đóng đô ở phía Bắc, mà không hề nhắc đến sự tồn tại của một triều đình khác ở phía Nam Champa, cũng không hề quan tâm đến việc có hay không một chính thể liên bang hay liên hiệp nhiều tiểu quốc của Champa, mà chỉ xem vương quốc này là một quốc gia thống nhất, theo thể chế tập quyền như Trung Hoa hay Đại Việt. Có chăng ông chỉ nhắc đến các địa hạt thuộc vương quốc Champa như Amaravati, Vijaya, Panduranga.

Năm 1965, một công trình lịch sử nữa của Champa được xuất bản bởi Dohamide và Dorohiem. Nhưng dường như hai tác giả của công trình này cũng không hề quan tâm đến giả thuyết của Durand. Cũng chính vì vậy, hai tác giả này chỉ khắc họa lịch sử Champa như một vương quốc với một triều đình duy nhất, không hề đề cập đến một triều đình khác ở phía Nam, hay nói cách khác, hai tác giả này cũng xem Champa như một quốc gia có chính thể tập quyền.

Năm 1978, Po Dharma xem xét nghiêm túc giả thuyết của Durand, tiến hành nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về các Biên niên sử hoàng gia Chăm và đi đến kết luận rằng các văn bản này là có giá trị về mặt lịch sử, nhưng sở dĩ nó không trùng khớp với niên đại của các vị vua ở Bắc Champa vì nó chỉ là danh sách các vị vua của Panduranga ở phía Nam, do đó ông gọi tên các văn bản này là Biên niên sử hoàng gia Panduranga [11]

Trên cơ sở này, Po Dharma lập luận trong một công trình được xuất bản sau đó rằng Champa có đến hai tiểu quốc là Vijaya và Panduranga. Vijaya thì thất thủ sau năm 1471, trong khi Panduranga vẫn tồn tại cho đến tận năm 1832 [12]. Sau đó không lâu, trong một hội thảo quốc tế về Champa, Po Dharma tiếp tục phát triển ý tưởng này và đi đến khẳng định Champa là một quốc gia theo thể chế liên bang bao gồm 5 tiểu quốc Indrapura, Amarawati, Vijaya, Kauthara và Panduranga [13].

Những công bố của Po Dharma đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong nhận thức về thể chế chính trị của vương quốc Champa, trường phái “xét lại” (revisionist), theo cách gọi của Bruce M. Lockhart [14], đã giành được sự chấp thuận của các nhà Champa học về sau. Kể từ đó, vương quốc Champa không còn được xem như một quốc gia thống nhất với chế độ quân chủ tập quyền như Trung Hoa hay Đại Việt nữa, thay vào đó nó được thừa nhận là một quốc gia liên bang, bao gồm 5 tiểu quốc Indrapura (Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay), Amaravati (Thừa Thiên, Quảng Nam), Vijaya (Quảng Ngãi, Bình Định), Kauthara (Phú Yên, Khánh Hòa) và Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận). Trong đó có một tiểu quốc giữ vai trò chủ đạo (trước thế kỷ thứ 10 là Amarawati, từ thế kỷ 10 – 15 là tiểu quốc Vijaya), vua của tiểu quốc đó cũng chính là vua của liên bang, thường được gọi là Rajadiraja (vua của các vị vua) [15].

Từ những năm 1970 – 1980, những nhà nghiên cứu về mô hình các nhà nước Đông Nam Á thời cổ đã phát triển nhiều lý thuyết mang tính bước ngoặc. Trần Kỳ Phương có thể là người đầu tiên công bố những quan điểm về sự hình thành, cấu trúc và cách thức tổ chức của từng tiểu quốc thuộc liên bang Champa. Giáo sư Trần Quốc Vượng, cùng thời gian đó, cũng đã công bố những nghiên cứu liên quan đến thể chế liên bang của Champa. Theo ông khi chấp nhận Champa như một Mandala thì một “vùng”, một “tiểu quốc” ở Champa sẽ được quy hoạch theo mô hình: Núi (nơi đặt thánh địa) – đồng bằng (nơi đặt thành thị) – duyên hải (nơi đặt cảng thị) – đảo ven bờ (cũng giữ vai trò thương mại) tất cả được phân bố theo một trục sông chảy từ núi ra biển theo hướng Tây – Đông.

Lấy ví dụ, ở Quảng Nam: thánh địa Mỹ Sơn ở núi Chúa – thành Trà Kiệu ở đồng bằng – cảng Hội An ở ven biển – xa hơn là đảo Cù Lao Chàm, 4 yếu tố này đều quy hoạch theo trục sông Thu Bồn, kết nối núi và biển. Giáo sư Trần Quốc Vượng, sau đó tiếp tục mở rộng vùng khảo sát để phát triển giả thuyết của mình khắp miền Trung với các mô hình tương tự mà ông nêu ra là ở Quảng Bình, Quảng Trị Thừa Thiên, Bình Định, Khánh Hòa và Đồng Nai…

Một nghiên cứu khác cũng rất đáng chú ý liên quan đến thể chế Mandala Champa của Giáo sư Momoki Shiro, đó là bài viết liên quan đến thể chế liên bang của Champa thông qua việc tham chiếu các nguồn thư tịch của Trung Hoa liên quan đến vương quốc này. Khi dẫn các nguồn tài liệu của Trung Hoa, Giáo sư cho rằng Champa có ít nhất hơn 10 nước lớn nhỏ như Xinzhou, Jiuzhou, Wuli, Rili, Yueli, Weirui, Bintonglong, Wumaba, Longrong, Puluowuliang, Baopiqi… Mặt khác, khi nghiên cứu về thể chế chính trị của nhà nước liên bang Champa, các học giả cũng quan tâm đến một mô hình cấu thành và vận hành của các tiểu quốc trong liên bang này, đó là mô hình “hệ thống trao đổi ven sông/riverine exchange network” của B. Bronson [16]

Trần Kỳ Phương là người đầu tiên áp dụng mô hình này vào trường hợp cụ thể của sông Thu Bồn chảy qua Quảng Nam. Dòng sông này được xem như một cầu nối từ vùng cao của tỉnh nơi có đông đảo người Katu bản địa cư trú đến vùng đồng bằng, đổ ra cửa Đại, nơi có cảng thị Đại Chiêm hoặc xa hơn nữa ra đến Cù Lao Chàm. Từ đây, các hàng hóa từ vùng cao xuống tận đồng bằng sẽ được đưa vào hệ thống mậu dịch khu vực và quốc tế. Điều này khiến cho sông Thu Bồn trở thành một trục lộ quan trọng không chỉ trong hoạt động thương mại và liên kết vùng, mà còn góp phần cấu thành tiểu quốc Amaravati, trở thành điển hình cho hệ thống trao đổi ven sông trong lịch sử Champa [17].

Tiếp đến, W. Southworth cũng áp dụng mô hình “hệ thống trao đổi ven sông” vào trường hợp nghiên cứu không chỉ từ dòng sông Thu Bồn, mà còn bước đầu gợi mở việc áp dụng mô hình này với cả miền Trung Việt Nam. Khác với Trần Kỳ Phương và nhiều nhà nghiên cứu khác sau này, việc áp dụng mô hình trao đổi ven sông vào trường hợp Champa của Southworth chủ yếu tham chiếu các tư liệu về khảo cổ học từ thời Sa Huỳnh cho đến các phế tích, đền đài, bia ký thành lũy ở khắp miền Trung Việt Nam hiện nay như thành Trà Kiệu (Quảng Nam), phế tích đền tháp Po Dam (Bình Thuận), bia ký Chợ Dinh (Phú Yên)… Áp dụng mô hình trao đổi ven sông này với trường hợp dòng sông Côn chảy qua Bình Định.

Theo Đỗ Trường Giang dòng sông này bắt nguồn từ Bắc Tây Nguyên, chảy qua các làng mạc, vùng đồi trung du và đồng bằng trù phú, cuối cùng đổ ra biển ở Vịnh Thị Nại, nơi có một thương cảng sầm uất. Như vậy, cũng như sông Thu Bồn ở phía Bắc, sông Côn giữ vai trò nối kết các bản làng trên cao nguyên qua vùng đồng bằng ra đến thương cảng Thị Nại để từ đó tham gia vào hệ thống thương mại. Vì lẽ đó, dòng sông này trở thành một trục lộ then chốt cấu thành tiểu quốc Vijaya, một trong những tiểu quốc giữ vai trò chủ đạo trong Mandala Champa [18].

Áp dụng mô hình trao đổi ven sông với trường hợp sông Đà Rằng (sông Ba) chảy qua Gia Lai và Phú Yên trải rộng qua nhiều vùng, nhiều tỉnh từ miền cao đến đồng bằng và cuối cùng đổ ra biển, chính vì vậy dòng sông này đã tạo ra một tuyến thủy hệ quan trọng nối kết các hàng hóa từ cao nguyên đến tận cửa biển Phú Yên. Từ đó, dòng sông này không chỉ giữ vai trò quan trọng trong việc liên kết các vùng mà còn góp phần hình thành tiểu quốc Hoa Anh, một tiểu quốc đã xuất hiện trong biên niên sử Việt Nam, nhưng cho đến nay vị trí cụ thể của nó vẫn rất mơ hồ [19].

Theo ông K. Taylor thì liên bang Champa là một điển hình của “không gian văn hóa – chính trị quần đảo”, trong đó, mỗi tiểu quốc của Champa có thể được xem như một đảo nhỏ vận hành trong cơ cấu chung theo “hệ thống trao đổi ven sông” của B. Bronson.

Theo sử liệu Nam tiến trước thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh (1069-1470) thì  vào năm 40 sau tây lịch, cương vực nước Chiêm bắt đầu từ đèo Ải Vân (Hải Vân ngày hôm nay) vào tới Bình Thuận (tỉnh lỵ  là  Phan Thiết). Lúc này đồng bằng sông Cửu Long chưa có rõ rệt trong khi đang bồi nên được gọi là đất Phù Nam (tức đất bồi ở phương Nam). Khi nước Việt bị nhà Đường thống trị, lợi dụng sự suy yếu này ( #800) quân Chiêm đánh chiếm đến tận Bố Chánh thuộc tỉnh Quảng Bình ngày hôm nay.

Năm 1069 vua Lý Thánh Tông (1054-1072) đánh sang Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Vua Chiêm xin dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (thuộc tỉnh Quảng Bình ngày hôm nay) cho Đại Việt. Năm 1306, vua Chiêm là Chế Mân xin cưới công chúa Huyền Trân (con vua Trần Nhân Tông, em vua Trần Anh Tông), và xin dâng 2 châu Ô, châu Rí cho Đại Việt để làm sính lễ, được vua Trần Anh Tông tiếp nhận và đổi tên là Thuận Châu (Quảng Trị) và Hóa Châu (Thừa Thiên).

Năm 1402,  Hồ Quý Ly sai binh tướng đánh sang Chiêm Thành làm vua Chiêm sợ hãi nên dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam) cho Đại Việt (tên nước là Đại Ngu). Quý Ly lại đòi thêm đất Cổ Lũy (Quảng Nghĩa). Từ đó người Chiêm Thành ở các vùng đã bị sáp nhập vào Đại Việt lần lượt bỏ đi vào sống gần vùng thủy Chân Lạp (miền Nam VN ngày nay).

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) lại đánh sang Chiêm Thành để ngăn cản âm mưu của vua Chiêm là Trà Toàn toan sáp nhập Chiêm Thành vào nước Tàu. Trận nầy quân nhà Lê bắt được vua Chiêm là Trà Toàn. Đại Việt lấy thêm vùng đất Đồ Bàn & Đại Chiêm của Chiêm Thành lập ra đạo Quảng Nam (tức là tỉnh Bình Định ngày nay).

Vua Lê muốn làm cho nước Chiêm thế lực yếu đi, mới chia Chiêm Thành ra làm 3 vùng tự  trị là Hóa Anh (Phú  Yên và  Khánh Hòa), Chiêm Thành (Ninh Thuận và Bình Thuận), và Nam Phan (hay Nam Bàn) là vùng Cao Nguyên (đất ở trên cao), tức Gia Lai (Pleiku), Đắc Lắc (Buôn Mê Thuột) và Lâm Đồng (Đà Lạt).

Ba vùng này được hoàn toàn tự do về việc tự trị; nhưng không được lập quân đội và không có quyền ngoại giao để cầu cứu nhà Minh bên Tàu hay các nước khác trên thế giới…Do đó sự hội nhập không có vấn đề đối kháng. Mọi người đều an vui làm ăn yên ổn, dưới sự giám sát của Triều Đình Đại Việt. 

Năm 1611, vua Po Nit là thủ lãnh các vùng tự trị của Champa tiến quân đánh tỉnh Quảng Nam gây hấn cùng Đại Việt.Chúa Nguyễn Hoàng phái tướng Văn Phong đem quân vào đánh nước Champa (Chiêm Thành) lấy một vùng đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc tỉnh Phú Yên.

Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo.

champa

Mãi đến năm 1627, Sãi Vương gả quận-chúa Ngọc Khoa cho thủ lãnh các vùng tự trị Chiêm là PO-ROME. Ngọc Khoa được triều đình tự trị Chiêm Thành tấn phong Hoàng Hậu Champa và được dân Chiêm Thành ngưỡng mộ đem kiệu vàng rước về nước. Cuộc hôn nhân nói trên rõ ràng là noi gương lịch sử mở nước về phương Nam từ đời vua Trần Nhân Tông hơn 300 năm trước đó. Như vậy, PO-ROME chính là con rễ nước Việt cai trị vùng tự trị Chiêm Thành từ đó.

Ngày nay, hậu duệ của chú rễ quý PO-ROME đã hòa nhập vào dòng sinh mệnh chung của dân tộc VN, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa Champa là điều đáng quý. Phần lớn người sắc tộc Chăm (tức Champa) sinh sống trong 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận và hài hòa với sắc tộc Kinh ở cấp độ cao nhất trong 54 sắc tộc của VN.

Tóm lại lược khảo nầy không chỉ giúp chúng ta lý giải các vấn đề liên quan đến thể chế chính trị của vương quốc Champa mà còn cung cấp những gợi mở thú vị để nghiên cứu thể chế chính trị của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn. Cơ cấu và bản sắc chính trị của một vùng đất, dù có biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử, theo từng chủ thể tiếp nối, nhưng chắc hẳn đều sẽ có những tiếp biến, tương tác và kế thừa.

Miền Trung Việt Nam, từ khi thiết chế chính trị Đàng Trong được hình thành, chắc hẳn cũng phải trải qua những kế thừa, tương tác và tiếp biến đối với nền chính trị của vương quốc Champa trước đó. Những đặc trưng đó giúp chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong khác với chính quyền chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, dù vẫn là người Việt, và cũng chính nó giúp chính quyền này tồn tại và giữ vị thế độc lập trước xứ Đàng Ngoài, cũng như trước cả quốc tế trong thời điểm bấy giờ. 

_________________

Tham khảo:

[1] https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/18376-cac-di-n-ngon-v-th-ch-chinh-tr-c-a-champa

[2] Về vương quốc Champa cf. : G. Maspero (1828), Le Royaume de Champa, Les Éditions : G. Van Oest, Paris ; Dohamide – Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Saigon ; T. Quach-Langlet (1988), “Le cadre historique de l’ancien Campa”, in Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague, Travaux du CHCPI, Paris, pp. 27-47 ; Lương Ninh (2004), Lịch sửVương quốc Champa, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội ; M. Vickery (2011), “Champa Revised”, trong The Cham of Vietnam : History, Society, and Art, Tran Ky Phuong, Bruce M. Lockhart (ed), NUS Press, Singapore, pp. 363 – 420 ; Pierre-Bernard. Lafont (2011), Vương quốc Champa : địa dư – dân cư – lịch sử, IOC – Champa, San Jose.

[3] Phan Khoang (1971), Xứ Đàng Trong (1558 – 1771), Khai Trí, Saigon ; Taylor (1998), “Surface Orientations in Vietnam : Beyond histories of nation and Region”, The Journal of Asian Studies, 57 (4), pp. 949 – 978 ; Li Tana (2013), Xứ Đàng Trong : lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh ; Vũ Đức Liêm (2016), “Tái định vị xứ Đàng Trong trong không gian Đông Á và Đông Nam Á, thế kỷ XVI – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130), tr. 12 – 42.

[4] Về các bia ký Chăm xem : L. Finot (1903), “Notes d’épigraphie : III Stèle de Cambhuvarman a Mi Son”, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient (BEFEO), tome 3, pp. 206 – 213 ; (1904), “Notes d’épigraphie : VI. Inscriptions du Quang Nam”, BEFEO, tome 4, pp. 83 – 115 ; (1904), “Notes d’épigraphie XI : Les inscriptions de Mi-Sơn”, BEFEO, tome 4, pp. 897 – 977 ; R. C. Majumdar (1985), Champa : History and culture of an Indian colonial kingdom in the Far – East 2nd – 16th centuries AD, Book III : Inscription of Champa, Gian Publishing House, Delhi.

[5] Về các biên niên sử Trung Hoa có đề cập đến Champa xem : Lương Ninh (2004), op.cit, tr. 306 – 343. Về các biên niên sử Việt Nam xem : Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội ; Khuyết danh (2005), Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế ; Nhiều tác giả (2009), Đại Việt sử ký Toàn thư, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

[6] Về các thư tịch Chăm xem : Pierre-Bernard Lafont – Po Dharma – Nara Vija (1977), Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXIV, Paris ; Po Dharma (1988), Complément au Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXXXIII, Paris ; Thành Phần (2007), Danh mục thư tịch Chăm tại Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[7] E. Aymonier (1890), “Légende historiques des Cham”, Excursions et Reconnaissances XIV (32), pp. 145 – 206.

[9] E. Durand (1905), “Notes sur les Chams : La Chronique Royale”, BEFEO V, pp. 377 – 382.

[10] G. Maspero (1928), op.cit.

[11] Po Dharma (1978), Chroniques du PandurangaThèse de l’EPHE, Paris.

[12] Po Dharma (1987), Le Panduranga 1822-1835. Ses rapports avec le Vietnam, EFEO, Paris, pp. 60 – 61. Bản dịch của công trình này xem : Po Dharma (2013), Vương quốc Champa : Lịch sử 33 năm cuối cùng, Champaka IOC – Champa, San Jose.

[13] Po Dharma (1988), “Etat des dernières recherches sur la date de l’absorption du Campa par les Vietnamiens”, in Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, CHCPI, Paris, pp. 59 – 67 ; Po Dharma (1994), “Status of the Latest Research on the Date of the Absorption of Champa by Vietnam”, in Proceedings of the Seminar on Champa, Southeast Asia Community Resource Center, R. Cordova, p. 55. Cf : Po Dharma (2013), op.cit, tr. 53 – 54.

[14] Bruce M.Lockhart (2011), “Colonial and post-colonial constructions of ‘Champa’”, in The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, pp. 1 – 53.

[15] Po Dharma (2013), op.cit, tr. 54 – 55.

[16] B. Bronson (1977), “Exchange at the upstream and downstream ends : Notes toward a functional model of the coastal state in Southeast Asia’, trong Economic exchange and social interaction inSoutheast Asia : Perspectives from prehistory, history,and ethnography, Karl L. Hutterer (Chủ biên), Center for South and Southeast Asian Studies, University of Michiganpp. 39-52.

[17] Trần Kỳ Phương (2004), “Bước đầu tìm hiểu về địa – lịch sử của vương quốc Chiêm thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam : Với sự tham chiếu đặc biệt vào ‘hệ thống trao đổi ven sông’ của lưu vực sông Thu Bồn Quảng Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn hóa làng các dân tộc thiểu số Quảng Nam, Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Miền Trung, Huế ;  xem thêm : Tran Ky Phương (2008), “Riverine exchange network” : An exploration of the historical cultural landscape of central Vietnam”, in trong biblioasia, vol 4, Issue 3, Singapore.

[18] Đỗ Trường Giang (2011), “Biển với lục địa – thương cảng Thị Nại Champa (Champa) trong hệ thống thương mại Đông Á (Thế kỷ XX – XV)”, trong Người Việt với biển, Nguyễn Văn Kim (Chủ biên), Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 285 – 314.

[19] Nguyễn Hữu Thông (2015), “Sông Ba : giao lộ chính trị – kinh tế – Văn hóa đặc thù”, trong Thông báo khoa học, Đại học Văn Hiến số 7 tháng 5, tr. 33 – 45.

Tài liệu đọc thêm:

  1. Nguyễn Văn Huy, Người Chăm tại Việt Nam, Thông Luận 2002.

https://thongluan-rdp.org/t-li-u/item/304-c-ng-d-ng-ng-i-cham-t-i-vi-t-nam-bai-1

Người Chăm 1 – Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè

Người Chăm 2 – Thời kỳ xác định bản thể 

Người Chăm 3 – Thời kỳ mở nước và dựng nước 

Người Chăm 4 – Thời vàng son

Người Chăm 5 – Thời kỳ xung đột

Người Chăm 6 – Bùng lên trước khi tàn lụi

Người Chăm 7 – Cố gắng tồn tại trong khó khăn

Người Chăm 8 – Cộng đồng người Chăm tại Campuchia

  1. Aymonier Étienne, “Légendes historiques des Chams” in Excursions et Reconnaissances, n° 14-32, 1889, pp. 145-206.
  2. Bronson B. (1977), “Exchange at the upstream and downstream ends : Notes toward a functional model of the coastal state in Southeast Asia”, in Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia : Perspectives from prehistory, history and ethnography, Karl L. Hutterer (Chủ biên), Center for South and Southeast Asian Studies, University of Michigan, pp. 39-52.
  3. Bertrand M. S (2009), “Lương Ninh : Lịch sử Vương quốc Champa”, trong Champaka 9, IOC – Champa, San Jose, tr. 138 – 156.
  4. Durand Emile (1905), “Notes sur les Chams : La Chronique Royale”, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient (BEFEO), tome 5, pp. 377 – 382.
  5. Dohamide – Dorohiem (1965), Dân tộc Chàm lược sử, Saigon.
  6. Lê Quý Đôn (2007), Phủ Biên Tạp lục, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  7. Finot L (1903), “Notes d’épigraphie : III Stèle de Çambhuvarman à Mi Son”, BEFEO, tome 3, pp. 206 – 213.
  8. Finot L (1904), “Notes d’épigraphie : VI. Inscriptions du Quang Nam”, BEFEO, tome 4, pp. 83 – 115.
  9. Finot L (1904), “Notes d’épigraphie XI : Les inscriptions de Mi-Sơn”, BEFEO, tome 4, pp. 897 – 977.
  10. Phan Khoang (1971), Xứ Đàng Trong (1558 – 1771), Khai Trí, Saigon.
  11. Khuyết danh (2005), Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.
  12. Lafont Pierre-Bernard – Po Dharma – Nara Vija (1977), Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO C XIV, Paris.
  13. Lafont Pierre-Bernard (2011), Vương quốc Champa : địa dư – dân cư – lịch sử, trong Champaka, 05/11/2018, IOC – Champa, San Jose.
  14. Li Tana (2013), Xứ Đàng Trong : lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
  15. Vũ Đức Liêm (2016), “Tái định vị xứ Đàng Trong trong không gian Đông Á và Đông Nam Á, thế kỷ XVI – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130), tr. 12 – 42.
  16. Maspero Gẻoges (1928), Le Royaume de Champa, Les Éditions : G. Van Oest, Paris.
  17. Majumdar R. C (1985), Champa : History and culture of an Indian colonial kingdom in The Far – East 2nd – 16th centuries AD, Book III : Inscription of Champa, Gian Publishing House, Delhi.
  18. Po Dharma (1978), Chroniques du Panduranga, Thèse de l’EPHE, Paris.
  19. Po Dharma (1987), Le Panduranga 1822-1835. Ses rapports avec le Vietnam, EFEO, Paris.
  20. Po Dharma (1988), Complément au Catalogue des manuscrits cam des bibliothèques françaises, EFEO CXXXIII, Paris.
  21. Po Dharma (1988), “Etat des dernières recherches sur la date de l’absorption du Campa par les Vietnamiens”, in Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, CHCPI, Paris, pp. 59 – 67.
  22. Po Dharma (1994), “Status of the Latest Research on the Date of the Absorption of Champa by Vietnam”, in Proceedings of the Seminar on Champa, Southeast Asia Community Resource Center, R. Cordova, 53 – 64.
  23. Po Dharma (2013), Vương quốc Champa : Lịch sử 33 năm cuối cùng, Champaka IOC – Champa, San Jose.
  24. Tran Ky Phuong – Vu Huu Minh (1991), “Cua Dai Chiem (Port of Great Champa) in the 4th – 15th centuries”, trong Ancient town of Hoi An, Foreign Languages Publishing House, Hanoi, 77-81.
  25. Trần Kỳ Phương (2004), “Bước đầu tìm hiểu về địa – lịch sử của vương quốc Chiêm thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam : Với sự tham chiếu đặc biệt vào ‘hệ thống trao đổi ven sông’ của lưu vực sông Thu Bồn Quảng Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn hóa làng các dân tộc thiểu số Quảng Nam, Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Miền Trung, Huế.
  26. Trần Kỳ Phương (2008), “‘Riverine exchange network’ : An exploration of the historical cultural landscape of central Vietnam”, in biblioasia, vol 4, Issue 3, Singapore.
  27. Quach-Langlet. T (1988), “Le cadre historique de l’ancien Campa”, in Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague, Paris (Travaux du CHCPI), pp. 27 –
  28. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  29. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam Thực lục, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  30. Momoki Shiro (2011), “‘Mandala Champa’ seen from Chinese documents”, trong The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, 127 – 132.
  31. Southworth W (2011), “River Settlement and Coastal trax to wards a specific model of early state development in Champa”, in The Cham of Vietnam : History, Society, and arts, Bruce Lockhart and Tran Ky Phuong (ed), NUS Press, Singapore, pp. 102 – 119.
  32. Tambiah J. (1976), World Conqueror and World Renounser : A study of Buddhism and Polity in Thailand Against a Histotical background, Cambridge University Press.
  33. Keith W. Taylor (1992), “The early kingdoms”, trong The Cambridge history of Southeast Asia, Vol.1, From early times to c.1800, Cambridge University Press.
  34. Keith W. Taylor (1998), “Surface Orientations in Vietnam : Beyond histories of nation and Region”, The Journal of Asian Studies, 57 (4), pp. 949 – 978.
  35. Nguyễn Hữu Thông (2008), “Từ mô hình Mandala nghĩ về cấu trúc xã hội của vương quốc Champa”, trong Thông tin khoa học, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, tháng 3, tr. 7 – 22.
  36. Nguyễn Hữu Thông (2015), “Sông Ba : giao lộ chính trị – kinh tế – Văn hóa đặc thù”, trong Thông báo khoa học, Đại học Văn Hiến số 7 tháng 5, tr. 33 – 45
  37. Trần Quốc Vượng (1998), “Từ cái nhìn Thánh địa Mỹ Sơn”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Di tích Mỹ Sơn, Quảng Nam, tr. 37 – 40.
  38. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
  39. Vickery M (2011), “Champa Revised”, in The Cham of Vietnam : History, Society and Art, Tran Ky Phuong, Bruce M. Lockhart (ed), NUS Press, Singapore, pp. 363 – 420.
  40. Wolters O.W. (1982), History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives, Institute of Southeast Asian Studies, New York.
  41. https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/18122-kh-i-ngu-n-c-a-champa-m-t-ti-p-c-n-d-a-tren-s-li-u-phi-truy-n-th-ng

 

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)