VNTB – COVID-19 làm lu mờ những tranh chấp ở Biển Đông

VNTB – COVID-19 làm lu mờ những tranh chấp ở Biển Đông

Khánh An dịch 

(VNTB) – Những diễn biến chính ở Biển Đông vào năm 2020 do tác động của đại dịch COVID-19, luật pháp quốc tế và an ninh hàng hải.

 

Carlyle Thayer, UNSW Canberra

COVID-19 tác động đến các tranh chấp ở Biển Đông theo hai cách. Thứ nhất, không có cuộc gặp trực tiếp nào giữa các thành viên ASEAN và Trung Quốc thông qua Nhóm công tác chung để thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (JWG-DOC). Do JWG-DOC đã thúc đẩy các cuộc đàm phán về Biển Đông, các cuộc đàm phán vốn đã phức tạp hơn và không có tiến triển nào về Bộ Quy tắc ứng xử (COC), nhằm quản lý quan hệ liên quốc gia và tranh chấp lãnh thổ ở vùng biển tranh chấp.

Thứ hai, thủy thủ đoàn của tàu USS Theodore Roosevelt nhiễmi COVID-19 sau khi đến Việt Nam vào đầu tháng 3. Tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân đã ngưng hoạt động trong hai tháng. Trong khi hệ thống tuyên truyền Trung Quốc nói đến các vấn đề này liên tục, Hoa Kỳ phản đối bằng cách buộc tội Trung Quốc lợi dụng đại dịch corona để bắt nạt và đe dọa các quốc gia yêu sách.

Việc phát triển lớn liên quan đến luật pháp quốc tế là Trung Quốc đã thành lập hai khu hành chính mới ở Biển Đông vào ngày 18 tháng 4 – một trên Quần đảo Hoàng Sa và bãi Macclesfield, một trên quần đảo Trường Sa. Cả hai quận đều thuộc thẩm quyền của thành phố Sansha trên đảo Phú Lâm. Việc thành lập các khu hành chính này đã thúc đẩy sự phản đối của Việt Nam và Philippines.

Nhưng về luật pháp không có tiến triển nào quan trọng hơn công hàm được đệ trình lên Ủy ban Liên Hợp Quốc về Giới hạn thềm lục địa (CLCS) hoặc Tổng thư ký Liên Hợp Quốc để đáp lại việc Malaysia đệ trình sơ bộ về một thềm lục địa mở rộng vào ngày 12 tháng 12 năm 2019. Công Hàm của Malaysia đã bác bỏ cơ sở pháp lý của các yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử. Trung Quốc đã đáp trả bằng cách yêu cầu Ủy ban Liên Hợp Quốc về Giới hạn thềm lục địa thẳng thừng bác bỏ yêu cầu của Malaysia.

Năm 2019 đệ trình của Malaysia đã kích hoạt các phản ứng của Philippines (hai công hàm vào ngày 6 tháng 3), Việt Nam (30 tháng 3 và hai công hàm vào ngày 10 tháng 4), Indonesia (26 tháng 5), Hoa Kỳ (1 tháng 6), Úc (23 tháng 7), Malaysia (29 tháng 7) và một công hàm đồng ký tên của Pháp, Đức và Vương quốc Anh (16 tháng 9). Trung Quốc đã đệ trình từng phản ứng một đối với các công hàm trên.

Ba chủ đề nổi lên từ các cuộc trao đổi ngoại giao này – một sự bác bỏ hoàn toàn các yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử, ủng hộ các yêu sách đối với các khu vực hàng hải chỉ dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), và ủng hộ Phán quyết của Tòa trọng tài đối với các tuyên bố của Philippines phản đối Trung Quốc. Phát biểu trước Đại hội đồng LHQ ngày 22/9, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cho biết ‘Phán quyết[của toà trọng tài] hiện là một phần của luật pháp quốc tế, ngoài sự thỏa hiệp’.

An ninh hàng hải ở Biển Đông bị ảnh hưởng bởi các tàu thực thi pháp luật hàng hải và một loạt các cuộc tập trận hải quân của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc đã tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia để quấy rối một tàu khoan dầu hoạt động theo hợp đồng với Petronas, công ty dầu khí nhà nước Malaysia, từ cuối tháng 1 đến tháng 2/2020.

Năm 2020 cũng được đánh dấu bởi hai sự cố của tàu chiến Trung Quốc , sự hiện diện hải quân liên tục của Washington và các hoạt động tự do hàng hải (FONOPS), một sự thay đổi trong sự hiện diện của máy bay ném bom Mỹ có trụ sở tại Guam, cũng như các cuộc tập trận hải quân chưa từng có của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Chính quyền Trump đã nâng số lượng FONOPS hàng năm do hải quân Hoa Kỳ tiến hành, đáng chú ý nhất là tiến hành hai FONOPS liên tục vào cuối tháng 4.

Trong tháng 4 và tháng 5, Trung Quốc tìm cách tận dụng sự bất lực đối với covid-19 của tàu USS Theodore Roosevelt bằng cách phái Đội đặc nhiệm tàu sân bay Liêu Ninh đến phía bắc Biển Đông để tiến hành các hoạt động bay và một loạt các cuộc tập trận. Washington đã đáp trả vài tháng sau đó bằng cách khẳng định mạnh mẽ nhất về sức mạnh hải quân ở Biển Đông kể từ năm 2014 bằng cách điều động ba nhóm tấn công tàu sân bay.

Trung Quốc đã đáp trả sự hiện diện của các tàu sân bay Mỹ bằng cách điều động bốn máy bay chiến đấu và bốn máy bay ném bom đến đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa vào đầu tháng 7. Bắc Kinh sau đó tiến hành một loạt các cuộc tập trận hải quân trùng với cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) ngoài khơi Hawaii từ ngày 17 đến ngày 31 tháng 8.

Trong cuộc phô trương quyền lực đáng chú ý, Trung Quốc đã bắn hai tên lửa đạn đạo từ các địa điểm riêng biệt trên đất liền vào vùng biển giữa đảo Hải Nam và Hoàng Sa. Trong tháng 9, Trung Quốc tiến hành bốn cuộc tập trận hải quân đồng thời ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, Hoàng Hải và Vịnh Ba Tư. Vào tháng 11, Hải quân Trung Quốc đã tiến hành hai cuộc tập trận riêng biệt ở Biển Đông. Lần đầu bao gồm bốn tàu đổ bộ đổ bộ, trong khi lần thứ hai bao gồm một chi hạm đội tàu tên lửa tàng hình. Lực lượng Bảo vệ Bờ biển và Dân quân Biển Trung Quốc tiếp tục các cuộc tuần tra ‘như thường lệ’ và quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí do các quốc gia duyên hải tiến hành trong đường chín đoạn của Trung Quốc.

Nhìn về phía trước, căng thẳng ở Biển Đông khó có thể lắng xuống khi Trung Quốc và Mỹ tiếp tục chu kỳ hành động-phản ứng với các cuộc tập trận quân sự. Trung Quốc sẽ quấy rối bất kỳ việc tái thăm dò dầu mỏ nào của các quốc gia yêu sách trong vùng biển mà nước này tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc sẽ tăng áp lực lên các thành viên ASEAN để hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử vào năm 2021. Chính quyền Biden sẽ tái tham gia với ASEAN và cung cấp đối trọng với Trung Quốc.

*Carlyle A Thayer là Giáo sư danh dự tại Học viện Lực lượng Quốc phòng Úc, Đại học New South Wales, Canberra.

Nguồn: East Asia Forum


CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)