Hoài Nhơn
(VNTB) – Ở Việt Nam, việc sạt lở đất được coi là ‘thiên tai’, bất chấp trong nhiều trường hợp, đó chính là hệ lụy của chủ trương phá rừng tự nhiên và phát triển rừng trồng để lấy gỗ.
Luật Phòng, chống thiên tai, phiên bản sửa đổi ngày 17-6-2020, định nghĩa như sau về “thiên tai” tại khoản 1, điều 3: “Thiên tai là hiện tượng tự nhiên bất thường có thể gây thiệt hại về người, tài sản, môi trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế – xã hội, bao gồm bão, áp thấp nhiệt đới, gió mạnh trên biển, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt; sạt lở đất, sụt lún đất do mưa lũ hoặc dòng chảy hoặc hạn hán; nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, cháy rừng do tự nhiên, rét hại, mưa đá, sương mù, sương muối, động đất, sóng thần và các loại thiên tai khác”.
Theo nội dung tài liệu ở dự án về quản lý rủi ro thiên tai đã được Ngân hàng Thế giới tài trợ cho Việt Nam (*), thì: “Việt Nam đã nâng cao năng lực quản lý rủi ro thiên tai lồng ghép cấp quốc gia và cấp tỉnh. Dự án cũng nâng cấp một loạt công trình cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai bao gồm hệ thống đê điều, cảng tránh trú bão, và công trình kiểm soát lũ lụt, 30 xã đã thực hiện Kế hoạch an toàn làng xã, trong đó có việc xây dựng hạ tầng giảm nhẹ thiên tai, tập huấn và chỉ định tuyên truyền viên quản lý thiên tai.
Đã có 210.000 người dân được hưởng lợi từ các kế hoạch này và nó đã chứng tỏ hiệu quả trong các trận bão và lũ lụt các năm 2009, 2010, và 2011. Tổng số có 210.000 người được hưởng lợi từ việc lập và thực hiện Kế hoạch an toàn làng xã. Các kế hoạch đó được chính các xã cập nhật hàng năm”.
Dự án sẽ được kết thúc vào cuối năm nay.
“Khoảng 70% dân số Việt Nam dễ bị rủi ro thiên tai – nhất là tại các vùng nông thôn, nơi sinh kế bị đe dọa nhiều nhất. Dự án được phối hợp với Chiến lược quốc gia của Chính phủ Việt Nam về phòng chống và giảm nhẹ thiên tai tới năm 2020. Mục đích cuối cùng là giảm nhẹ thiệt hại về người, của và môi trường, đồng thời đóng góp vào phát triển bền vững, quốc phòng và an ninh” – trích tóm tắt giới thiệu dự án.
Theo báo cáo, thì dự án giúp tiếp cận lồng ghép giúp vượt qua những thách thức khi phải sống chung với thiên tai tại các vùng nông thôn, bao gồm các phần việc cụ thể như sau: Thứ nhất, đào tạo giúp cộng đồng xây dựng kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng và lồng ghép quản lý rủi ro thiên tai vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của xã. Thứ hai, áp dụng các tiêu chuẩn xây dựng mới và tốt hơn trong xây dựng đường giao thông nông thôn và hạ tầng thủy lợi – hai hạng mục thiết yếu đối với vùng nông thôn – nhằm đảm bảo sự an toàn và sinh kế của người dân.
Thứ ba, tăng cường sinh kế cho các hộ nghèo thông qua Hệ thống thông tin quản lý rủi ro nông nghiệp (ARMIS), giúp nông dân nâng cao năng suất và tăng sức chịu đựng trước các loại thiên tai như hạn hán, lũ lụt, xói mòn đất, và nắng nóng. ARMIS cũng cung cấp thông tin về kiểm soát sâu bệnh, chữa bệnh, quản lý dinh dưỡng, bảo tồn nước, thời vụ canh tác và sự phát triển cây trồng.
Thứ tư, triển khai các biện pháp giảm thiểu rủi ro công trình cho đê điều, hồ chứa và cầu thoát hiểm nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của thiên tai.
Một báo cáo từ Trung tâm Quản lý Thiên tai (DMC), Tổng Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, đã có nhận xét như sau về dự án nói trên:
“Từ thành công của Dự án thí điểm Quản lý rủi ro thảm họa dựa trên cộng đồng (CBDRM) do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tại 12 tỉnh, Chính phủ Việt Nam đã quyết định xây dựng một Chương trình Quốc gia CBDRM với khoản kinh phí dự kiến thực hiện khoảng 450 triệu đô la Mỹ cho khoảng 6.000 xã trong cả nước. Có 11 công trình hạ tầng phòng chống lụt bão lớn như cảng tránh bão, đê sông, đường tránh bão, trạm bơm thoát nước vùng miền Trung đã được xây dựng/cải tạo. Dự án đã nâng cấp 10 công trình hạ tầng chống thiên tai, và 30 công trình hạ tầng dịch vụ công như trường học, trạm y tế bị thiệt hại do thiên tai gây ra.
Trên 210.000 dân tại 30 xã đã tiến hành các biện pháp công trình, bao gồm các trung tâm sơ tán đa dụng và kênh thoát nước, cùng với các biện pháp phi công trình khác, ví dụ xây dựng kế hoạch xã an toàn và còi báo động. 100% số xã thuộc Dự án được tập huấn và được trang bị các thiết bị cảnh báo sớm”.
Tuy nhiên với những gì đã và đang xảy ra tại miền Trung, cho thấy dường như rất cần có các đánh giá kiểm chứng về hiệu quả thật sự của Dự án Quản lý rủi ro thiên tai. Bởi dự án này có số kinh phí tài trợ khá lớn: Bắt đầu thực hiện từ 2006, Dự án Quản lý rủi ro thiên tai với nguồn vốn từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) là 86 triệu đô la Mỹ.
Ngoài ra, Dự án cũng nhận được khoản viện trợ 8,5 triệu đô la Mỹ từ Chính phủ Hà lan, 1,46 triệu đô la Mỹ từ Quỹ phát triển xã hội Nhật Bản, và 4,5 triệu đô la Mỹ từ Quỹ chính sách và phát triển nguồn nhân lực Nhật Bản. Quỹ giảm thiểu và khôi phục thảm họa toàn cầu cung cấp một khoản viện trợ 4,4 triệu đô la Mỹ dành cho nghiên cứu khuyến khích phát minh và áp dụng thông lệ thế giới vào hoàn cảnh Việt Nam…
_______________
Chú thích:
(*) https://projects.worldbank.org/en/projects-operations/project-detail/P073361