Hoài Nguyễn
(VNTB) – Việt Nam được dự báo là sẽ vào danh sách “thiên đường” rửa tiền của các đối tượng phạm tội.
Muôn mặt rửa tiền
Rửa tiền (Money laundering) là hành vi các cá nhân hay tổ chức tìm cách chuyển đổi các khoản lợi nhuận hoặc tài sản khác có được từ hành vi phạm tội trở thành các tài sản hợp pháp.
Theo Công ước Palermo năm 2000 của Liên Hợp Quốc, hành vi rửa tiền bao gồm 4 nhóm cơ bản sau: “(I) Chuyển đổi hay chuyển giao tài sản do phạm tội mà có nhằm che đậy hoặc che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc nhằm giúp đỡ bất cứ người nào liên quan đến việc thực hiện một hành vi phạm tội để lẩn tránh những hậu quả pháp lý do hành vi hành vi của người đó gây ra;
(II) Che đậy hoặc che dấu bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm, việc chuyển nhượng, chuyển dịch hoặc quyền sở hữu hay những quyền đối với tài sản, dù biết rằng tài sản này do phạm tội mà có;
(III) Giành được, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, dù tại thời điểm nhận được tài sản, biết rằng đó là tài sản do phạm tội mà có; (IV) Tham gia, liên kết hay thông đồng thực hiện, nỗ lực thực hiện và hỗ trợ, xúi giục, tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện bất kỳ một hành vi phạm tội nào theo quy định của điều này”.
Quy trình rửa tiền thường được tiền hành bằng 3 bước cơ bản sau: Sắp xếp, Phát tán và Quy tụ.
Sắp xếp (Placement): Giai đoạn sắp xếp là giai đoạn đưa tiền bẩn của tội phạm vào hệ thống tài chính lần đầu tiên. Giai đoạn này nhằm phục vụ hai mục đích là giúp tội phạm giảm lượng lớn tiền mặt đang nắm giữ và đưa tiền bẩn vào hệ thống tài chính hợp pháp.
Phát tán (Layering): Đây là giai đoạn phức tạp nhất và thường liên quan tới quá trình chuyển tiền ra nước ngoài. Mục đích của giai đoạn này là tách tiền bất hợp pháp khỏi nguồn của nó và tạo ra một lộ trình kiểm toán phức tạp.
Cuối cùng, quy tụ (Intergration): Giai đoạn cuối của quy trình rửa tiền được gọi là giai đoạn quy tụ. Ở giai đoạn này, tiền bẩn quay trở lại nguồn hoặc được đưa tới địa điểm hoặc tài khoản chỉ định và được “gột rửa” để trở thành hợp pháp.
17 loại tội phạm với bình quân 11 ngàn vụ nghi vấn mỗi năm
Theo đánh giá rủi ro quốc gia (NRA) của Việt Nam, tội phạm rửa tiền xuất phát từ 17 loại tội phạm nguồn khác nhau sắp xếp theo nguy cơ rửa tiền bao gồm: (1) Tham ô tài sản (Điều 353); (2) Tổ chức đánh bạc (Điều 322); (3) Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy (Điều 249-252);
(4) Nhận hối lộ (Điều 354); (5) Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175); (6) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản (Điều 355); (7) Đánh bạc (Điều 321); (8) Trốn thuế (Điều 200); (9) Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234);
(10) Lửa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); (11) Vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền qua biên giới (Điều 189); (12) Mua bán người (Điều 150); (13) Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả (Điều 207); (14) Sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); (15) Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm (Điều 190, 191); (16) Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304) và (17) Buôn lậu (Điều 188).
“Số lượng các vụ án về tội phạm có rủi ro về rửa tiền là rất lớn, bình quân trên 11.000 vụ/năm, nhiều vụ án số tiền chiếm đoạt lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đáng lưu ý, trung bình mỗi ngày, Cục Phòng chống tội phạm rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước tiếp nhận, phân tích, xử lý hàng nghìn báo cáo giao dịch đáng ngờ” – đó là thông tin được ông Cao Anh Đức, Phó Vụ trưởng Vụ Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra an ninh, thuộc Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao công bố tại Hội thảo về Phòng, chống tội phạm rửa tiền, tổ chức hồi cuối năm ngoái.
Con số chục ngàn vụ mỗi năm như vậy liên quan nghi vấn rửa tiền, thế nhưng, “Đến nay, Việt Nam đã xét xử được 3 vụ án với tội danh rửa tiền theo Điều 251 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điều 324 Bộ luật hình sự năm 2015, gồm: Vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại Công ty TNHH Vận tải Viễn Dương Vinashin (Vinashinlines); Vụ án liên quan đến đường dây đánh bạc do Nguyễn Văn Dương, Phan Sào Nam cầm đầu; Vụ án Lê Thị Hà Nội do TAND tỉnh Vĩnh Phúc xét xử tháng 11-2019” – trích Tài liệu tổng kết thi hành Luật phòng, chống rửa tiền được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi tới Bộ Tư pháp.
Vụ án thứ tư sẽ đưa ra xét xử liên quan đến Trung Quốc?
Vụ án liên quan đến rửa tiền giữa Việt Nam – Trung Quốc có thể sắp được đưa ra xét xử vụ cặp vợ chồng Nguyễn Thị Nguyệt (sinh năm 1985) – Phạm Anh Tuấn (sinh năm 1984), cùng trú tại quận Tây Hồ, Hà Nội, cùng 11 đồng phạm trong vụ vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới, với số tiền lên đến hơn 30.000 tỷ đồng.
Cáo trạng vụ này cho biết, năm 2016, bà Nguyệt phát hiện nhiều người có nhu cầu thuê chuyển tiền trái phép ra nước ngoài nên đã liên hệ với Phạm Hữu Thuật (sinh năm 1981, thường trú tại Móng Cái, Quảng Ninh) để mua hồ sơ tạm nhập, tái xuất nhằm mục đích chuyển tiền.
Thông qua Công ty TNHH xuất nhập khẩu Đại Phát và Công ty TNHH đầu tư Đại Phát, bà Nguyệt và ông Thuật đã hợp thức hồ sơ để chuyển tiền, chuyển hàng hết sức vòng vèo nhằm che giấu hành vi phạm pháp.
Phạm Hữu Thuật và Nguyễn Thị Nguyệt thỏa thuận, mỗi bộ hồ sơ tạm nhập, tái xuất để chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, ông Thuật bán cho bà Nguyệt với giá từ 30 triệu đồng đến 40 triệu đồng. Bà Nguyệt chuyển cho ông Thuật thông tin công ty nhận tiền và mẫu dấu, chữ ký giám đốc của công ty để ông Thuật hoàn thiện hợp đồng tạm nhập hàng hóa và làm thủ tục kê khai hải quan.
Ông Thuật và bà Nguyệt cùng nhau chung tiền mua hàng ngàn bộ linh kiện điện tử từ Trung Quốc của người có tên A Vỹ để có hàng hóa làm thủ tục tạm nhập qua cửa khẩu Móng Cái, rồi tái xuất sang Trung Quốc cho Công ty Hữu hạn mậu dịch Triều Dương (ở Đông Hưng, Quảng Tây, Trung Quốc) qua các cửa khẩu do A Vỹ chỉ định. Sau đó chính A Vỹ nhận những kiện hàng này rồi chuyển lại cho ông Thuật.
Phạm Hữu Thuật đã mở 49 tờ khai tạm nhập tái xuất hàng hóa của Công ty Đại Phát với tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu là 52 triệu USD, tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu tương đương. Ông Thuật cũng sử dụng công ty này thực hiện thanh toán quốc tế 48/49 hợp đồng tại năm ngân hàng, số tiền chuyển ra nước ngoài là hơn 2.500 tỷ đồng.
Ngoài ra ông Thuật còn sử dụng công ty BDA để chuyển hơn 1.300 tỷ đồng. Tổng cộng ông Thuật và bà Nguyệt đã thực hiện trót lọt hành vi chuyển ra nước ngoài gần 4.000 tỷ đồng.
Sau khi bà Nguyệt đã nắm được cách thức chuyển tiền trái phép ra nước ngoài nên đã cùng chồng là Phạm Anh Tuấn, rủ thêm vợ chồng em trai và nhiều người thân trong họ cùng hợp tác làm ăn.
Vợ chồng bà Nguyệt đã mượn chứng minh thư nhân dân của họ để thành lập đến 8 công ty, với những ngành nghề kinh doanh khác nhau, song đều có chung ngành xuất nhập khẩu. Từ đó bà Nguyệt sẽ soạn và ký hợp đồng kinh tế, mua hàng hóa là IC điện thoại thông minh của các công ty tại Singapore rồi xuất bán cho các công ty tại Trung Quốc theo hình thức tạm nhập tái xuất để có tờ khai hải quan.
Tiếp đó bà Nguyệt liên hệ với các ngân hàng, lập các tài khoản rồi thực hiện việc chuyển tiền trái phép từ Việt Nam ra nước ngoài để hưởng lợi 0,1% trên mỗi giao dịch chuyển tiền. Nhiệm vụ của ông Tuấn là quản lý, điều hành hoạt động Công ty An Gia Huy và Công ty Thuận An Phát. Cơ quan điều tra xác định ông Tuấn đồng phạm với bà Nguyệt đã chuyển trái phép số tiền gần 7.000 tỷ đồng và hưởng lợi gần 7 tỷ đồng….