(VNTB)-Lenore Ealy: Chính sách giáo dục có phải là chính sách kinh tế?

Phạm Nguyên Trường dịch

(VNTB) – Khi chính quyền trung ương tuyên bố rằng nó thay thế hoàn toàn sự hợp tác tự nguyện của những người quan tâm chính thì đó là nó tự lừa dối mình hay muốn lừa dối bạn.
Alexis de Tocqueville

Giáo dục Mỹ thất bại?

Một thành viên Ủy ban Giáo dục bang (Indiana State Board of Education) vừa khẳng định niềm tin của ông ta rằng “chính sách giáo dục là chính sách kinh tế.”

“Không có những trường học đẳng cấp quốc tế, chúng ta không thể lôi kéo được nhân tài và CÔNG VIỆC về Indiana”, ông Gordon Hendry viết trên tờ Indianapolis Star như thế. Ý kiến của ông Hendry cũng là thế giới quan đang giữ thế thượng phong của các nhà lập chính sách hiện nay. Nó cũng còn có thể làm cho chúng ta nghĩ rằng vì sao cải cách giáo dục tiếp tục đòi phải chi NHIỀU HƠN mà kết quả đạt được lại ít hơn.

Nói chung, không ai bác bỏ được sự kiện là hệ thống giáo dục của chính phủ trên khắp nước Mỹ đang gặp thất bại. So sánh trên bình diện quốc tế cho thấy sinh viên Mỹ đang tụt hậu so với các sinh viên các nước khác. Đánh giá trên bình diện quốc gia cho thấy vẫn có khoảng cách trong thành tích học tập giữa các nhóm kinh tế – xã hội cũng như giữa các nhóm sắc tộc khác nhau. Những người sử dụng lao động nhận thấy rằng thanh niên chưa sẵn sàng tham gia lực lượng lao động nếu không được đào tạo thêm. Các trường cao đẳng nhận thấy rằng ngày càng có nhiều sinh viên chưa được chuẩn bị cho việc theo học đại học và cần phải có các môn học nhằm khắc phục hậu quả. Các giáo viên đứng lớp đang bị chôn vùi dưới hàng đống những thủ tục hành chính quan liêu và sự soi xét của các phương tiện truyền thông; họ cảm thấy khó mà duy trì được niềm đam mê dạy học của mình. Phụ huynh và học sinh không hài lòng vì nhiều lý do, và ngày càng có nhiều người tìm kiếm những trường học thanh bình, trật tự, hữu hảo và hiệu quả hơn.

Chúng ta đang sống với tiếng thở dài tập thể của sự tuyệt vọng, được ngắt quãng bởi những cuộc tranh cãi đầy giận dữ về những đề xuất khác nhau về công cuộc cải cách, từ việc chọn trường cho đến phong trào Tiêu chuẩn Cốt lõi (Common Core standards movement). Nhưng, dù biết bao nhiêu tiền thuế, vốn liếng chính trị và mực đã được đổ vào những VẤN ĐỀ của cải cách giáo dục và cải tiến trường học, chúng ta đã KHÔNG nêu ra câu hỏi căn bản: Giáo dục vì ai?

Vì cá nhân hay vì nhà nước?

Nếu không có sự rõ ràng về vấn đề này thì tất cả các nỗ lực cải cách đều chỉ là những chuyện tầm phào, còn đất nước thì khánh kiệt.
Nếu chúng ta muốn duy trì quyền tự do của chế độ tự quản được thể hiện trong hệ thống liên bang Mỹ thì một lần nữa chúng ta phải trở thành những người có khả năng thực hiện và bảo vệ quyền tự do đó. Vai trò của giáo dục là quan trọng trong việc hình thành một dân tộc tự do đến mức không thể không làm rõ những giới hạn của hành động của Nhà nước đối với tất cả các cấp học. Để làm như vậy, chúng ta phải tìm hiểu rất nhiều câu hỏi, tức là những câu hỏi nâng tầm chú ý của chúng ta khỏi những trận cãi vã về chính sách hiện nay và nhen nhóm lại một cuộc đối thoại rộng hơn, cuộc đối thoại ở tầm hiến pháp về câu hỏi chúng ta là ai và chúng ta mong muốn trở thành những người như thế nào.

Thế hệ lập quốc công nhận tầm quan trọng ở tầm hiến pháp của giáo dục trong việc hình thành những con người có khả năng tự quản, nhưng đã để cho cộng đồng địa phương và các bang nhiều quyền hạn trong việc tìm phương tiện và nội dung của việc dạy và học. Pháp lệnh năm 1787 (The Northwest Ordinance), đặt NỀN MÓNG cho sự hỗ trợ giáo dục của chính phủ và thể hiện sự quan tâm chính của chính phủ trong lĩnh vực giáo dục – không đề cập đến tầm quan trọng của việc học trong những thuật ngữ kinh tế học, nhưng đã chỉ thị rằng “tôn giáo, đạo đức và kiến thức là cần thiết cho việc quản lí hiệu quả và hạnh phúc của nhân dân, các trường học và các phương tiện giáo dục sẽ luôn luôn được khuyến khích”.

Trong thế kỷ XIX những người thuộc đảng Whig (một đảng chính trị ở Mĩ, sau này giải tán, một số đảng viên tham gia vào đảng Cộng hòa – ND), do những nhà cải cách như Horace Mann đứng đầu, nắm quyền kiểm soát nhiều hơn trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là khi giáo dục bắt buộc có thể dùng làm phương tiện nhằm tiêm nhiễm những giá trị và tập tục của người da trắng, người Anglo-Saxon, đạo Tin Lành (WASP) cho những người nhập cư mới đến bến bờ nước Mỹ. Đến cuối thế kỷ XIX, với niềm tin rằng các trường công lập phải tiếp tục bảo vệ trung tâm đạo đức và văn hóa dựa trên giá trị của WASP đã làm cho hầu hết các bang thông qua “Tu chính án Blaine”, tức là tu chính án tìm cách ngăn cấm việc sử dụng QŨY giáo dục của nhà nước cho các trường tôn giáo địa phương, đặc biệt là các trường Công giáo.

Những nhà cải cách tiến bộ (Progressive reformers) đầu thế kỷ XX cũng giữ vai trò là người bảo hộ đồng bào của mình. Chính sách giáo dục và chính sách kinh tế được thu về một mối khi họ làm cho trường học Mỹ thích ứng với quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế. Áp dụng những công cụ mới của quản lí theo “khoa học” nhằm kiểm soát xã hội phản ánh niềm tin ngày càng tăng rằng vận dụng những phương pháp khoa học nhằm quản lí xã hội đã tập quyền hóa là việc làm cần thiết để xã hội tốt đẹp hơn. Như John Dewey nói: “Lập kế hoạch cho xã hội đã được tổ chức, thực hiện nó nhằm tạo ra một trật tự, trong đó các ngành công nghiệp và tài chính được xã hội quản lí nhân danh các thiết chế chuyên cung cấp cơ sở vật chất cho việc giải phóng và sự phát triển về mặt văn hóa của các cá nhân, đấy là phương pháp hoạt động xã hội duy nhất mà chủ nghĩa tự do có thể dùng nhằm đạt được mục tiêu mà nó tuyên xưng”.

Những ông vua cởi truồng

Xã hội của những người tự do không thể là xã hội, trong đó nhà nước hành chính quan liêu giám sát mọi tiểu tiết của cuộc sống của chúng ta, từ khi còn nằm nôi cho đến lúc chết. Mặc cho những tiếng nói phản đối – thí dụ như những lời phản đối trên trang mạng The FREEMAN kể từ khi mạng này được thành lập – các trường công lập của chúng ta tiếp tục được mài dũa như là những công cụ của chế độ chuyên ôn hòa.

Hiện nay, các nhà cải cách giáo dục ngày càng coi con em chúng ta như là phương tiện để nuôi cỗ máy kinh tế. Các nhà lãnh đạo của các tập đoàn toàn cầu, các “chuyên gia” giáo dục và các nhà lãnh đạo chính trị, đã đánh mất quan niệm về mục tiêu đúng đắn của giáo dục, họ đang khuyến khích một chương trình đào tạo thống nhất trên cả nước, được đánh giá bằng những kì thi được ăn cả ngã về không. Quá nhiều thời gian đã trôi qua đủ để cho chúng ta nhận ra rằng những kẻ muốn làm hoàng đế của tâm hồn – những kẻ săn đuổi xã hội không tưởng, trong đó tất cả trẻ em đều có thể trở thành SINH VIÊN hoặc sẵn sàng ĐI LÀM ở độ tuổi 18 – là những ông vua cởi truồng.

Chính sách kinh tế không phải là chính sách giáo dục. Nền giáo dục Mỹ đã bị suy giảm về chất lượng vì chỉ đóng vai trò là trợ giúp cho tăng trưởng kinh tế. Chính sách kinh tế tốt không chỉ là chính sách giáo dục, chính sách kinh tế nên tập trung vào các vấn đề như giữ cho ĐỒNG TIỀN vững chắc và ổn định, hạn chế chi tiêu của chính phủ và nợ công, chấm dứt chủ nghĩa tư bản ô dù và từ bỏ những qui định độc đoán, trưng thu và thu hồi, tức là những chính sách làm tiêu tan ước muốn kinh doanh và và tạo ra công ăn việc làm.

Giáo dục có thể thúc đẩy kinh tế thịnh vượng hay không? Có, nhưng chỉ khi nó nhận ra những giới hạn của hoạt động của nhà nước đối với quá trình phát triển đạo đức của cá nhân và tạo điều kiện cho công việc dạy và học theo đuổi mục đích thật sự của nó: Giúp trẻ em phát triển thành những người đàn ông hay phụ nữ có khả năng theo đuổi cuộc sống riêng của mình một cách có trách nhiệm.

Chính sách giáo dục có phải là chính sách kinh tế hay không? Có, nhưng chỉ khi chúng ta tin rằng người lao động hoặc người nộp thuế là chủ nhân ông của chính mình. Trong tác phẩm Towards a Philosophy of Education, Charlotte Mason, một nhà sư phạm người Anh thế kỷ XIX, nhận xét rằng:

Chúng ta học chậm bởi vì chúng ta đã để ông thần hiệu quả vào trong góc nhỏ trong đền thờ riêng của mình, nơi mà tính cách cá nhân phải làm chủ. Chúng ta tự gây ra khó khăn cho mình khi lo lắng về lợi ích của người thanh niên đối với xã hội. Đối với lợi ích của chính anh ta, anh phải là người như thế nào và làm gì cho chính mình, thì tại sao, và điều gì gây ra rắc rối? Bởi vì, chúng ta nói rằng, nếu chúng ta giúp anh ta kiếm sống thì chúng ta cũng giúp anh ta phục vụ nhân quần và chúng ta có thể làm được gì cho cá nhân anh ta? Chúng ta quên là có chép rằng, “Loài người sống chẳng những chỉ nhờ bánh thôi đâu, song cũng nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời nữa” (Tin Lành theo Ma-Thi-Ơ 4.4, Tân Ước – ND) – dù được nói như một chân lý của tôn giáo, một bài thơ, một bức tranh, một phát kiến khoa học hay sáng tác văn học; thì người ta vẫn sống bằng những điều đó và đời sống tinh thần thể hiện trong những thứ đó.
Chúng ta không phải không có những biển chỉ đường trong việc tái kiểm tra niềm tin của chúng ta rằng mục đích của giáo dục chỉ là thịnh vượng về mặt kinh tế. William von Humboldt, một tác gia vĩ đại theo trường phái tự do cổ điển, người đã giúp xây dựng chính sách giáo dục của nước Phổ, đã hiểu rõ những nguy hiểm của việc coi đứa trẻ là chỉ đơn giản là một tài sản của nhà nước. Ông nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo dục và sự tế nhị của việc Nhà nước tham gia công tác quản lý giáo dục. “Mối quan hệ tốt đẹp giữa con người và các công dân có thể chấm dứt hoàn toàn nếu con người bị hy sinh cho các công dân,” Humboldt cảnh báo như thế trong tác phẩm The Limits of State Action. Ông viết tiếp:

Cho dù có thể tránh được những hậu quả của sự bất hòa, thì mục tiêu mà đoàn thể những con người trong xã hội dự định vẫn sẽ bị hi sinh. Từ đó tôi rút ra kết luận rằng sự phát triển tự do nhất bản chất của con người – càng ít bị nhắm tới nghĩa vụ của công dân thì càng tốt – phải luôn luôn được coi là quan trọng nhất. Người được tự do phát triển như vậy nên gắn bó với nhà nước; còn nhà nước thì cần phải dùng thước đo của anh ta để kiểm tra lại mình. Chỉ thông qua một cuộc đấu tranh như thế thì tôi mới có thể tự tin mà hi vọng là sẽ có một sự cải thiện thực sự hiến pháp quốc gia, và xua đi tất cả nỗi sợ hãi về ảnh hưởng tiêu cực của các tổ chức dân sự đối với bản chất của con người.
Nói cách khác, cá nhân đi trước dân tộc và nhà nước. Làm ngược lại và biến nhà nước thành người giám hộ của người dân, là bỏ quên mục đích của cả tự do lẫn học tập.

Học là vì tự do
Tiến vào những lĩnh vực mới, người Mỹ đang khám phá nhiều biện pháp mới trong việc giáo dục con cái của họ, từ dạy học tại nhà đến các hợp tác xã giáo dục, từ các trường tư thục mới đến các trường học tự quản (charter schools – nhà nước tài trợ nhưng hoạt động độc lập với nhà nước – ND). Nhưng mặt khác, các nhà lãnh đạo giáo dục của chúng ta tiếp tục câu chuyện ngày càng gây khó khăn cho tương lai của tự do. Coi chính sách giáo dục như chính sách kinh tế đã làm chúng ta rơi vào những cuộc tranh cãi chính trị có tính cách chia rẽ. Một bên là những người không thoát ra khỏi được những di sản của phương pháp sư phạm tiên tiến (Progressive pedagogy) và nền chính trị công đoàn; còn bên kia là những người coi giáo dục trước hết là khuôn đúc ra những người lao động và người đóng thuế. Khi hai bên tìm thấy tiếng nói hoặc lợi ích kinh tế chung, ví dụ như liên minh nhằm thực hiện “đánh nhanh thắng nhanh”. Tiêu chuẩn Cốt lõi (Common Core State Standards) được cả hai bên chấp nhận thì tình hình có thể còn tồi tệ hơn.

Đối với những người còn lại trong chúng ta, tức là những người còn giữ được một ít ý niệm mơ hồ về người tự do nghĩa là gì hay những người nhớ tình yêu của việc học tức là cái đã truyền cảm hứng để họ muốn đi dạy, chúng ta phải nhận ra rằng đây có thể là thời khắc của những ý kiến đối chọi nhau. Muốn tiến lên, chúng ta phải tìm được tiếng nói chung. Nơi bắt đầu tốt nhất là giả định rằng học là vì tự do, và rằng những đứa trẻ con học yêu kiến thức hơn điểm kiểm tra và những người coi trường học của họ là địa điểm của cộng đồng và các mối liên kết chứ không phải là chiến trường sẽ dễ dàng sử dụng quyền tự do của mình mà vẫn tôn trọng trật tự hiến pháp của chúng ta, vẫn thúc đẩy thịnh vượng của con người, và tạo ra sự thịnh vượng cho nhiều người.

http://www.fee.org/the_freeman/detail/is-education-policy-economic-policy

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)