VNTB – Người Việt Nam thích Mỹ, và Trung Quốc không thể thay đổi được điều đó

VNTB – Người Việt Nam thích Mỹ, và Trung Quốc không thể thay đổi được điều đó

Anh Khoa dịch

 

(VNTB) – Bắc  Kinh đã thất bại khi  cố biến việc rút quân khỏi Afghanistan thành lợi thế cho họ.

 

Tác giả: Điền Lương

 

Khi chuyến đi của Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris đến Hà Nội bị trì hoãn vào tháng trước, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Vương Hùng Ba đã vội vã tổ chức một cuộc gặp không báo trước trước đó với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.

Thứ Sáu tuần trước, hai tuần sau khi bà Harris rời Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã tới Hà Nội để bắt đầu chuyến công du kéo dài một tuần trong khu vực và có thêm Hàn Quốc.

Những nỗ lực ngoại giao như vậy hoàn toàn trái ngược với những trao đổi ngoại giao mờ nhạt giữa Hà Nội và Bắc Kinh trong năm qua.

Đầu năm nay, Vương Nghị đã đến tất cả các nước Đông Nam Á, trừ Việt Nam. Tháng 3 năm ngoái, Việt Nam không được mời tham dự cuộc họp cấp cao cấp khu vực do Trung Quốc tổ chức tại Phúc Kiến cùng với các ngoại trưởng Indonesia, Malaysia, Philippines và Singapore để thảo luận về cuộc khủng hoảng chính trị ở Myanmar.

Trong bối cảnh đó, chuyến thăm của Vương Nghị đến Hà Nội ngay tiếp theo sau Kamala Harris và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin cho thấy Trung Quốc cảnh giác đến như thế nào trước việc Washington ve vãn Việt Nam, và Bắc Kinh đã cố phá bĩnh như thế nào.

Có thể hình dung được rằng thông điệp không-quá-gần Mỹ của Trung Quốc có thể gây được tiếng vang đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam vốn đã nhiều lần nhắc lại rằngViệt Nam sẽ không đi với một nước này để chống lại nước kia. Cuối cùng, Việt Nam phải cố gắng hòa đồng và đứng vững trước Trung Quốc.

Vấn đề đối với Bắc Kinh là họ sẽ luôn phải đối mặt với một trận chiến khó khăn để lôi kéo công chúng Việt Nam về phía họ. Dấu hiệu mới nhất cho thấy Trung Quốc đã gặp phải tình thế khó xử như thế nào khi cố gắng so sánh cuộc rút lui hỗn loạn của Mỹ khỏi Afghanistan với sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975.

Vào đêm ngày 26 tháng 8, ngay sau khi bà Harris rời Việt Nam, Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội đã đăng một bài đăng dữ dội trên trang Facebook để đáp lại những phát biểu của bà Harris về việc Bắc Kinh “bắt nạt và yêu sách quá mức” ở Biển Đông. “Các nước trong khu vực sẽ không tham gia vào một liên minh chống Trung Quốc do Mỹ dẫn đầu”.

Viện dẫn về sự sụp đổ của Afghanistan, đại sứ quán Trung Quốc đã hỏi thẳng rằng liệu Mỹ có đang “đánh thức” bóng ma Sài Gòn thất thủ bằng cách cử các chính trị gia Mỹ đến Việt Nam để “gieo rắc mối bất hòa” giữa Trung Quốc và các nước láng giềng hay không.

Đại sứ quán Trung Quốc cũng hướng sự chú ý về việc Việt Nam vẫn còn đang chăm lo cho những vết thương do chiến tranh với Mỹ gây ra. Bài đăng trên Facebook kết luận với cảnh báo rằng Washington không tự nên đánh giá quá cao sức mạnh và ảnh hưởng của họ. Bài chỉ viết được bằng tiếng Việt và tiếng Trung – rõ ràng đã nhắm vào công chúng Việt Nam.

Không mất nhiều thời gian để người Việt Nam bình thường phản ứng, một minh chứng cho thấy sự kiện ở Afghanistan đã không thể xoay chuyển dư luận chống lại Washington.

Một phân tích trực tuyến về tình cảm công chúng của Viện ISEAS-Yusof Ishak – Singapore cho thấy những nỗ lực liên kết việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan với sự sụp đổ của Sài Gòn hầu như không xuất hiện trong các cuộc thảo luận trên mạng ở Việt Nam, càng ít xuất hiện trên các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát trong suốt chuyến công du của bà Harris tại Việt Nam.

Một phân tích khách dựa trên nội dung của viện cho thấy chuyến công du của bà Harris đã tạo ra phản ứng tích cực tổng thể trên cả báo chí và trên mạng xã hội Việt Nam.

Các quan điểm trực tuyến có thể là thoáng qua, thiếu suy nghĩ và thậm chí dễ bị thao túng. Nhưng những phản ứng tích cực như vậy rất có thể là biểu hiện của tình cảm thân Mỹ đã có từ lâu trong thế hệ trẻ Việt Nam.

Với 2/3 dân số của quốc gia gần 100 triệu dân sinh ra sau Chiến tranh Việt Nam, thanh niên Việt Nam chiếm 1/4 tổng dân số. Chính những người này là nền tảng của dư luận, một thực tế được chứng thực từ nhiều cuộc thăm dò khác nhau cho thấy sự ủng hộ không ngừng của người Việt Nam đối với Hoa Kỳ.

Các nhà quan sát bên ngoài từ lâu đã phải rất khó khăn để hiểu được việc giới trẻ Việt Nam không có ác cảm với người Mỹ dù chocuộc chiến tàn khốc đã gần như xóa sổ đất nước của họ. Nhưng đối với thế hệ sau chiến tranh, chính sách ngoại giao sức mạnh mềm của Mỹ và sức hấp dẫn văn hóa của chú Sam dường như đã chiến thắng.

Trong khi đó, ý niệm về một cuộc xung đột hàng nghìn năm với Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm lý người Việt đến nỗi các nhà cầm quyền Việt Nam thường nhấn mạnh đến điều đó để kêu gọi các phong trào dân tộc chống lại chủ nghĩa thực dân và ngoại xâm. Đáng chú ý là Việt Nam cũng sử dụng mối đe dọa từ Trung Quốc để đẩy mạnh các chiến dịch tuyên truyền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Nhà báo Ấn Độ Nayan Chanda từng kể lại rằng trong khi máy bay chiến đấu của Mỹ vẫn ném bom Hà Nội vào những năm 1970, du khách nước ngoài đến bảo tàng quốc gia của thành phố đã được nghe kể lại lịch sử về các cuộc xâm chiếm Việt Nam của Trung Quốc.

Nhà hoạt động chính trị hàng đầu của Mỹ Noam Chomsky cũng có trải nghiệm tương tự khi ông đến thăm Hà Nội trong thời gian Mỹ tạm ngưng ném bom miền Bắc Việt Nam, kể rằng vào buổi sáng khi ông đến nơi, ông được đưa đến bảo tàng chiến tranh để nghe các bài giảng dài về. các cuộc chiến tranh kéo dài hàng mấy thế kỷ của Việt Nam với Trung Quốc.

Với nhiều người Việt Nam, thông điệp đó vẫn còn vậy cho đến ngày nay. Không có sự bất hòa nào giữa giới trẻ Việt Nam và các thế hệ lớn tuổi khi nói đến nước láng giềng phương Bắc: Mối đe dọa từ Trung Quốc chưa bao giờ biến mất.

Nguồn: Nikkei Asia Review


 

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)