VNTB – Tình trạng thiếu nước ở Đồng bằng sông Cửu Long (kỳ II)

VNTB – Tình trạng thiếu nước ở Đồng bằng sông Cửu Long (kỳ II)
Nguyễn Minh Quang, P.E (VNTB) Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ngọt ở ĐBSCL bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận và nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực sông Mekong; vì vậy, chánh sách phát triển từ năm 1975 và nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” cần phải được thay đổi, nếu muốn giải quyết dứt khoát tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL.

Kỳ I: VNTB – Tình trạng thiếu nước ở đồng bằng sông Cửu Long


Hình 12 Xâm nhập mặn ở ĐBSCL
Nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL

Như đã trình bày ở trên, dữ kiện lưu lượng tại các trạm thủy học do MRC công bố cho thấy (1) các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong ở Trung Hoa và trên phụ lưu trong hạ lưu vực Mekong không phải là nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL và (2) việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong để dẫn tưới trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia đã làm giảm lưu lượng trung bình trong hai tháng đầu năm 2016, ít nhất, là 2.991 m3/sec, tức 49% lưu lượng sông Mekong tại Kratié, cửa ngỏ của châu thổ sông Mekong. Đó là chưa kể một lượng nước quan trọng do Cambodia sử dụng cho các dự án thủy nông ở hạ lưu Kratié, chẳng hạn như dự án Vaico và Stung Schinit.

Việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia; tuy nhiên, không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng thiếu nước hiện nay ở ĐBSCL. Nó càng không phải do tình trạng hạn hán (hay thay đổi khí hậu) vì ĐBSCL hiện đang ở trong mùa khô, mà bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận, nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực, và việc quản lý nguồn nước thiếu khoa học kéo dài từ năm 1975 cho đến nay.

Chánh sách phát triển thiển cận


Sau tháng 4 năm 1975, đoàn Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL (ĐQHCL), gồm một số “chuyên viên thủy lợi thượng thặng” của miền Bắc, đã được điều động vào Nam để khảo sát, nghiên cứu và thiết lập kế hoạch phát triển ĐBSCL. Nhiệm vụ của ĐQHCL là “thực hiện thắng lợi chính trị to lớn” của Đảng giao phó là “… biến tất cả đất đai có thể trồng trọt còn lại của ĐBSCL thành ruộng lúa có thể trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt chỉ tiêu 20 triệu tấn/năm trong kế hoạch ngũ niên 1975-1980” [29]. 

Hình 10 Hệ thống thủy lợi ĐBSCL
Lúc bấy giờ, chánh sách nầy có vẻ hợp lý để “khắc phục tình trạng ăn độn khoai, sắn, bo bo… triền miên” ở miền Bắc; nhưng Đảng quên rằng, thay vì trồng lúa, đất đai ở ĐBSCL còn có thể dùng để sản xuất nhiều nông phẩm khác có giá trị hơn để “ăn độn” như gà, vịt, cá, tôm… Thế là “… ta đấp đê, xây đập hay cống ngăn mặn dọc theo duyên hải và dọc theo sông ở hạ lưu thường bị nước mặn xâm nhập; dọc theo hai bờ sông Cửu Long, nơi nào nước lụt chảy tràn bờ, ta đắp đê ngăn lũ, xây các công trình lấy nước; nơi nào không có nước ngọt để thâm canh tăng vụ, ta đào kênh dẫn nước sông Cửu Long vào, nếu nước không tự chảy, ta xây dựng trạm bơm điện; nơi nào bị úng, ta thực hiện các công trình tiêu úng, chống úng,” [29] (Hình 10) với giả thiết là lúc nào cũng có sẵn nước ngọt trong sông!? Do đó, diện tích trồng lúa ở ĐBSCL đã tăng lên đến 1.963.000 ha (khoảng 49% diện tích của ĐBSCL) với 740.000 ha dẫn tưới trong mùa khô và 1.479.000 ha canh tác 3 vụ một năm [19].

Nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực Mekong


Việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia bắt nguồn từ nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” của Việt Nam trong việc thành lập MRC vào năm 1995 để thay thế cho MC 1957. Vì muốn được “độc lập, tự do” để “làm thủy lợi” ở ÐBSCL (sử dụng tất cả lưu lượng kiệt của sông Mekong để trồng lúa trong mùa khô!), Việt Nam đã loại bỏ các nguyên tắc sử dụng nước trong dòng chánh ở hạ lưu sông Mekong của MC 1957, điều mà Thái Lan mong muốn để tiến hành các dự án thủy nông và thủy điện trong lưu vực sông Mekong như dự án thủy điện Pak Mun và thủy nông Kong-Chi-Mun. Nhận thấy hậu quả tai hại của nó, Việt Nam “muốn” thương thảo (bằng cách phản đối) nhưng phải “nhượng bộ” Thái Lan để “giúp” Cambodia vì Thái Lan xem việc loại bỏ các nguyên tắc của MC 1957 là điều kiện tiên quyết (preconditions) để cứu xét yêu cầu tái gia nhập MC của Cambodia vào tháng 6 năm 1991 [30].

Cuối cùng, vào ngày 5 tháng 4 năm 1995, Cambodia, Lào, Thái Lan, và Việt Nam ký kết Thỏa ước Hợp tác Phát triển Khả chấp Lưu vực sông Mekong (Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of the Mekong River Basin) tại Chiang Rai, Thái lan để thành lập MRC. Thỏa ước 1995 không có một điều khoản ràng buộc pháp lý nào về việc sử dụng nước sông Mekong. Nói cách khác, Thỏa ước 1995 dành quyền quyết định cho “mỗi quốc gia thành viên được tự do thực hiện kế hoạch cho tương lai của mình (each member nation is free to carry out whatever plan or plans it has for its future)” [30].

Quản lý nguồn nước thiếu khoa học


Dựa vào dữ kiện lưu lượng của MRC [11], lưu lượng trung bình trong hai tháng đầu năm 2016 của sông Tiền tại Tân Châu là 3.265 m3/sec và của sông Hậu tại Châu Đốc là 1.646 m3/sec. Như vậy, lưu lượng trung bình của sông Mekong chảy vào ĐBSCL trong hai tháng đầu năm 2016 là 4.911 m3/sec; tuy thấp hơn năm 2003 (7.042 m3/sec) nhưng cao hơn năm 2004 (4.490 m3/sec) [31]. Nếu diện tích trồng lúa Đông-Xuân 2015-2016 là 1.563.300 ha [9] với mức sử dụng nước tưới chỉ bằng ½ của dự án Huay Laung – Giai đoạn 1 (cần 6 m3/sec cho 2.400 ha), phải cần một lưu lượng gần 3.910 m3/sec, tức gần 80% số nước sông Mekong chảy vào ĐBSCL. Và đây chính là lý do của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL.

Để đối phó với tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL, VKHTL đã đưa ra những biện pháp thiếu khoa học và không mang lại kết quả cho người dân, chẳng hạn như thiết lập trạm bơm hoặc đập tạm, nạo vét kênh mương, và nâng cấp các kênh chuyển nước ngọt và các trạm bơm hỗ trợ cho các hệ thống ngọt hóa ở ven biển! Tệ hại hơn, VKHTL đề nghị “… các địa phương cần phải tích trữ nguồn nước ngọt tối đa bất kỳ thời điểm nào xuất hiện nguồn nước ngọt trên sông, kênh; Thực thi quyết liệt hành động chống hạn, hạn–mặn…” [9] và “… để tận dụng nguồn ngọt xảy ra rất ngắn (chỉ trong vòng 1 tuần), đề nghị các địa phương tập trung tối đa phương tiện để lấy ngọt, trong đó đặc biệt chú ý là mở các cống (ở các hệ thống ngọt hóa Gò Công, Nam Mang Thít,…), bơm,… khi nước ngọt xuất hiện (thường khi mực nước vừa và thấp)” [32]. Chính việc “lấy ngọt chống hạn” nầy càng làm giảm lưu lượng của sông, khiến cho nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền hơn! Việc nước mặn trên sông Hậu đã vào đến Cần Thơ [33], một sự kiện chưa từng có trong lịch sử của ĐBSCL, cho thấy mức tai hại của biện pháp “lấy ngọt chống hạn” của VKHTL. Và cuối cùng, VKHTL đề nghị tiếp tục “… đầu tư xây dựng các công trình chủ yếu chủ động kiểm soát, cấp nước ngọt cho các vùng ven biển” [34].


Biện pháp khắc phục thực tiễn và khả thi


Biện pháp cấp thời


Đồng ý với lập luận cho rằng “các hồ chứa thượng lưu” chi phối chủ đạo đến nguồn nước và xâm nhập mặn ở ĐBSCL, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đề nghị Trung Hoa gia tăng lưu lượng xả nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng ở Vân Nam – làm nhiều đợt từ tháng 3 đến tháng 6, tháng 8, mỗi đợt kéo dài khoảng 7 ngày với lưu lượng tối thiểu là 2.300 m3/sec [35] – để khắc phục tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL. Trung Hoa cam kết sẽ xả nước từ đập Cảnh Hồng, từ ngày 15 tháng 3 đến 10 tháng 4 năm 2016, với lưu lượng là 2.190 m3/sec [36].

Hình 11 Lúa chết ở Sóc Trăng TTXVN
Việc xả nước sông Mekong của Trung Hoa có lẽ chỉ nhắm vào mục đích tuyên truyền và chính trị. Bộ trưởng Thủy lợi Trần Lôi của Trung Hoa cho biết: “Trung Quốc và Việt Nam vừa là đồng chí, vừa là anh em, lại là láng giềng hữu hảo liền sông liền núi. Do đó chúng tôi đã trao đổi với Bộ Ngoại giao, bắt đầu từ hôm qua chúng tôi quyết định tăng lưu lượng xả nước trên đập Cảnh Hồng lên 2000 mét khối trên giây [gấp đôi] mỗi ngày xuống hạ du. Thời gian xả nước bắt đầu từ ngày 15/3 kéo dài liên tục đến 10/4, sau đó tùy vào tình hình sẽ điều chỉnh thích hợp.” Còn đài Phượng Hoàng ở Hongkong thì bình luận rằng: “Mặc dù giữa Trung Quốc với Việt Nam có những tranh chấp trên Biển Đông, hay một số nước phương Tây đặc biệt thích tuyên truyền lôi kéo một bộ phận người dân Việt Nam, khiến cho một số thành phần trong tầng lớp tinh anh của xã hội Việt Nam có cảm giác đề phòng Trung Quốc… Người Trung Quốc có câu, bán anh em xa mua láng giềng gần. Lúc Việt Nam và Thái Lan cần nước thì Trung Quốc liền cấp nước. Đó là điều Ấn Độ không thể làm, Nhật Bản và Hoa Kỳ càng không thể nào làm được. Do đó tôi nghĩ, sự kiện này sẽ là gợi ý cho một bộ phận người dân Việt Nam” [37]. Trên thực tế, việc xả nước của Trung Hoa là quá ít và quá trễ vì “… hầu hết các vùng canh tác lúa, hoa màu hiện nay ở ven biển đã bị thiệt hại gần hết rồi, đưa một lượng nước ít ỏi như vậy vào chẳng cứu được bao nhiêu và không còn ý nghĩa nữa” [38].

Biện pháp thực tiễn và khả thi cấp thời là sử dụng khôn ngoan số nước hiện có trong sông Tiền và Hậu để cứu vãn diện tích lúa Đông-Xuân chưa bị thiệt hại trong vùng không bị nhiễm mặn và dễ dẫn tưới. Tránh tối đa việc “lấy ngọt chống hạn” cho các vùng ven biển để giảm thiểu sự xâm nhập của nước mặn trong sông Tiền và Hậu hầu duy trì nguồn nước ngọt cho các thành phố lớn như Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh và Mỹ Tho. 

Biện pháp ngắn hạn (2-3 năm)


Để việc khai thác ĐBSCL có hiệu quả, nước sông Mekong chảy vào Việt Nam cần được quản lý một cách chặt chẻ với dữ kiện lưu lượng và độ mặn đầy đủ và chính xác (đến mức có thể đạt được). Dữ kiện đó phải được thu thập bởi một hệ thống trạm thủy học đặt ở các vị trí quan trọng trên sông Tiền và Hậu và ở các cửa sông hay kinh đào lấy nước từ sông Tiền và Hậu. Vào ngày 17 tháng 3 vừa qua, UBSMC cho biết “… sẽ đặt hai trạm quan trắc để theo dõi lượng nước Trung Quốc xả vào sông Mekong.” Vị trí của hai trạm nầy không được loan báo [39], nhưng có lẽ là trạm Tân Châu và Châu Đốc, nơi sông Mekong chảy vào ĐBSCL. Việc đặt hai trạm nầy là quá ít và quá trễ để quản lý nguồn nước sông Mekong ở ĐBSCL trong mùa khô năm nay, nhưng hệ thống trạm thủy học vừa nói có thể được thực hiện trong vòng 1 hoặc 2 năm. Hệ thống nầy có thể giúp ấn định số lượng nước sử dụng ở ĐBSCL để duy trì mức xâm nhập nước mặn có thể chấp nhận được trong tương lai. 

Hình 12 Xâm nhập mặn ở ĐBSCL
Giảm bớt số lượng nước dùng cho nông nghiệp bằng cách trồng một vụ lúa trong mùa mưa và hoa màu trong mùa khô ở vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn (Hình 12). Biện pháp nầy có thể giảm 2/3 nhu cầu nước tưới trong mùa khô trong vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn. Số nước tiết kiệm được đủ để ngăn chận sự xâm nhập của nước mặn vào sông Tiền và Hậu và duy trì nguồn nước gia dụng cho người dân.

Nghiên cứu khả thi việc sử dụng hồ chứa của các dự án thủy điện hiện có trên Cao nguyên miền Trung như Yali Falls, Plei Krong, và Sesan 4 cho mục đích thủy nông. Dựa theo diện tích của các hồ chứa nầy [12], một lượng nước lên đến 210 triệu m3 có thể tích trữ nếu tăng mực nước điều hành của hồ lên 1 m. Số nước nầy, dùng để dự phòng cho tình trạng khẩn cấp như hiện nay, đủ để cung cấp cho ĐBSCL một lưu lượng trung bình khoảng 500 m3/sec trong 5 ngày; dĩ nhiên, với sự đồng ý và hợp tác của Cambodia.

Biện pháp dài hạn (trên 5 năm)


Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ngọt ở ĐBSCL bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận và nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực sông Mekong; vì vậy, chánh sách phát triển từ năm 1975 và nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” cần phải được thay đổi, nếu muốn giải quyết dứt khoát tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL.

Chánh sách phát triển mới cần được cụ thể hóa trong kế hoạch tổng thể phát triển ĐBSCL. “Nói một cách cụ thể, chánh sách biến tất cả đất đai có thể trồng trọt được thành ruộng lúa từ năm 1975 cần phải thay thế bằng chánh sách phát triển đa dạng và uyển chuyển dựa theo điều kiện tự nhiên của ÐBSCL. ÐBSCL cần phải được phân vùng để chọn lựa những vùng sản xuất tối ưu cho việc trồng lúa, trồng hoa màu, trồng cây ăn trái và cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, nuôi thủy sản nước ngọt lẫn nước mặn, duy trì hệ sinh thái nội đồng và ven biển, và thiết lập những vùng đệm nhằm mục đích bảo vệ môi trường và vùng sinh thái. Những vùng sản xuất phải được chọn lựa như thế nào để tối ưu phúc lợi (benefit optimization) trong khi giảm đến mức thấp nhất những ảnh hưởng đối với các vấn đề đang gặp phải hiện nay; đó là, tình trạng lũ lụt, sạt lở bồi lắng, xâm nhập của nước mặn, ô nhiễm môi trường, và suy thoái hệ sinh thái.” [29]

Ngoài những “… bất cập của nhiều công trình thủy lợi bấy lâu nay được xây dựng ở Đồng bằng sông Cửu Long” [40], “… hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL cũng phải được quy hoạch lại cho phù hợp với kế hoạch phát triển mới. Nói cách khác, ÐBSCL cần phải có một hệ thống thủy lợi hoàn toàn mới, được quy hoạch dựa theo quan niệm và nguyên tắc hoàn toàn khác với quan niệm và nguyên tắc được áp dụng cho hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL. Những công trình và dự án nào của hệ thống thủy lợi hiện nay không phù hợp với kế hoạch phát triển mới, không có hiệu năng, hoặc gây ảnh hưởng tai hại phải được tháo gỡ hoặc hủy bỏ… Nguyên tắc thích hợp nhất cho ÐBSCL là giảm thiểu sự can thiệp của con người càng nhiều càng tốt với mục tiêu ‘điều thủy’ chứ không phải là ‘trị thủy.’ Số lượng công trình thủy lợi ở ÐBSCL cần được giảm thiểu đến mức thấp nhất, nhất là những công trình ‘đào đấp,’ nhưng cần phải có những hồ chứa nước ở những vùng trũng sâu hay ở ngoài đồng bằng để điều tiết lưu lượng trong sông Tiền và Hậu trong mùa nắng lẫn mùa mưa.” [29] 

Tình trạng “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực sông Mekong cần phải được chấm dứt càng sớm càng tốt với việc “phục hồi” nguyên tắc của MC 1957 và Tuyên cáo chung 1975 về việc sử dụng nước ở hạ lưu sông Mekong. Hai nguyên tắc đầu tiên của MC 1957 là “(1) lưu lượng kiệt của sông Mekong hiện tại không thể bị giảm bằng bất cứ cách nào và bất cứ ở đâu; và (2) nước dùng cho thủy nông chỉ được dự trữ trong lúc mực nước sông dâng cao” [30]. Hai điều khoản quan trọng nhất của Tuyên cáo chung 1975 gồm có Ðiều X: “Nước trong dòng chánh là tài nguyên chung, không một quốc gia duyên hà nào được đơn phương sử dụng nếu không được các quốc gia trong lưu vực chấp thuận trước qua Ủy ban” và Ðiều XI: “Các quốc gia duyên hà có thẩm quyền ngang nhau trong việc sử dụng nước trong dòng chánh” [30].

Thỏa ước 1995 cũng cần có những ràng buộc pháp lý và biện pháp chế tài nếu các quốc gia vi phạm những điều khoản đã ký kết. Nếu cần, Việt Nam có thể thương lượng song phương với các quốc gia ở thượng lưu để bảo vệ quyền lợi quốc gia trong việc phát triển sông Mekong. 

Kết luận


Từ giữa tháng 2/2016, tuy chưa phải là cao điểm của mùa khô, báo chí trong nước cũng như các đài phát thanh quốc tế đã lên tiếng báo động về tình trạng hạn hán và xâm nhập của nước mặn ở ĐBSCL, gây thiệt hại cho hàng trăm ngàn ha lúa cũng như gây khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày của người dân. Các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam như BNNPTNT, VKHTL, và UBSMC đều cho rằng “các hồ chứa thượng lưu” là nguyên nhân “chi phối chủ đạo.”

Dữ kiện lưu lượng tại các trạm thủy học do MRC công bố cho thấy nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL, không phải do các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong ở Trung Hoa hay trên phụ lưu trong hạ lưu vực Mekong, mà chính là do việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong để dẫn tưới trong mùa khô ở Lào, Thái Lan, và Cambodia. Chỉ trong 2 tháng đầu năm 2016, lưu lượng trung bình do các nước nầy sử dụng lên đến 2.991 m3/sec, tức 49% lưu lượng sông Mekong tại Kratié. Đó là chưa kể một lượng nước quan trọng do Cambodia sử dụng cho các dự án thủy nông ở hạ lưu Kratié, chẳng hạn như dự án Vaico và Stung Schinit.

Nhưng việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng thiếu nước hiện nay ở ĐBSCL. Nó càng không phải do tình trạng hạn hán (hay thay đổi khí hậu) vì ĐBSCL hiện đang ở trong mùa khô. Nó bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận, nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực, và việc quản lý nguồn nước thiếu khoa học kéo dài từ năm 1975 cho đến nay.

Để cứu hạn mặn ở ĐBSCL, chánh phủ Việt Nam đã yêu cầu Trung Hoa xả nước sông Mekong từ đập Cảnh Hồng. Nhưng trên thực tế, biện pháp nầy “quá ít và quá trễ” vì hầu hết vùng canh tác lúa và hoa màu ở vùng ven biển đã bị thiệt hại gần hết.

Biện pháp thực tiễn và khả thi cấp thời là (1) sử dụng khôn ngoan số nước hiện có trong sông Tiền và Hậu để cứu vãn diện tích lúa Đông-Xuân chưa bị thiệt hại trong vùng không bị nhiễm mặn và (2) tránh tối đa việc “lấy ngọt chống hạn” cho các vùng ven biển để giảm thiểu sự xâm nhập của nước mặn trong sông Tiền và Hậu hầu duy trì nguồn nước ngọt cho các thành phố lớn như Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh và Mỹ Tho. Các biện pháp ngắn hạn có thể bao gồm việc (1) thực hiện hệ thống đo đạc lưu lượng và độ mặn đầy đủ và chính xác (đến mức có thể đạt được) dùng cho việc quản lý nguồn nước ở ĐBSCL, (2) giảm bớt số lượng nước dùng cho nông nghiệp bằng cách trồng một vụ lúa trong mùa mưa và hoa màu trong mùa khô ở vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn, và (3) nghiên cứu khả thi việc sử dụng hồ chứa của các dự án thủy điện hiện có trên Cao nguyên miền Trung cho mục đích thủy nông. Các biện pháp dài hạn có thể bao gồm (1) thay đổi chánh sách biến tất cả đất đai ở ĐBSCL thành ruộng lúa bằng một chánh sách đa dạng, uyển chuyển dựa theo điều kiện tự nhiên của ĐBSCL, (2) “cải tạo” hệ thống thủy lợi hiện nay ở ĐBSCL cho phù hợp với chánh sách phát triển mới, (3) “phục hồi” các nguyên tắc của MC 1957 và điều lệ của Thông cáo chung 1975 bị hủy bỏ khi ký kết Thỏa ước MRC 1995, và (4) thương thảo – song phương hoặc đa phương – với các quốc gia thượng nguồn để đạt đến thỏa thuận có tính ràng buộc pháp lý và có biện pháp chế tài để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trong việc phát triển sông Mekong. 

Tài liệu tham khảo

[1] Trung Chánh. 15 tháng 2 năm 2016. “Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt với hạn, mặn.” KinhtếSàigònOnline. http://www.thesaigontimes.vn/142287/Dong-bang-song-Cuu-Long-doi-mat-voi-han-man.html

[2] Quốc Thanh – Chí Quốc. 17 tháng 2 năm 2016. “Hạn, mặn đặc biệt trong gần 100 năm.” Tuổi Trẻ. http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20160217/han-man-dac-biet-trong-gan-100-nam/1052728.html

[3] Thu Trang. 23 tháng 2 năm 2016. “Hạn, mặn kỷ lục do hồ chứa thượng nguồn.” Tin Tức. http://baotintuc.vn/xa-hoi/han-man-ky-luc-do-ho-chua-thuong-nguon-20160225222551141.htm

[4] Thắng Quang – Minh Anh. 23 tháng 2 năm 2016. ”Hạn, mặn kỷ lục 100 năm do hồ chứa ở thượng nguồn.” Zing.vn. http://news.zing.vn/Han-man-ky-luc-100-nam-do-ho-chua-thuong-nguon-post628410.html?google_editors_picks=true

[5] Nhóm Phóng viên. 1 tháng 3 năm 2016. ”ĐBSCL khốn đốn vì hạn, mặn.” Sài Gòn Giải Phóng Online. http://www.sggp.org.vn/thongtincanuoc/DBCuuLong/2016/3/413262/

[6] VOA Express. 22 tháng 2 năm 2016. “Đồng bằng sông Cửu Long bị hạn hán tồi tệ nhất 1 thế kỷ.” VOA. http://www.voatiengviet.com/media/video/3198766.html

[7] BBC Tiếng Việt. 24 tháng 2 năm 2016. “Thiên tai ngập mặn tràn vào miền Tây.” BBC. http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/02/160224_mekong_delta_drought

[8] Gia Minh. 1 tháng 3 năm 2016. “Xâm nhập mặn và khô hạn nặng vùng ĐBSCL.” RFA. http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ScienceAndEnvironment/severe-salinization-n-drought-mekong-delta-gm-03012016113436.html

[9] Trần Bá Hoằng. 28 tháng 12 năm 2015. “Dự báo xâm nhập mặn tại các cửa sông vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long và đề xuất các giải pháp chống hạn. Cập nhật cuối tháng 12 năm 2015.” Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam. TP Hồ Chí Minh, Việt Nam. http://www.siwrr.org.vn/tv3_files/Dubao_man_DBSCL_29_12_2015.pdf

[10] Thu Trang. 2 tháng 3 năm 2016. “Sử dụng hài hòa lợi ích nước sông Mê Kông.” Tin tức. http://baotintuc.vn/xa-hoi/su-dung-hai-hoa-loi-ich-nuoc-song-me-kong-20160302225351088.htm

[11] Mekong River Commission (MRC). Updated weekly, 2010 and 2016. “Tabular rated and forecasted discharges.” Mekong River Commission. http://ffw.mrcmekong.org/tabulardata.htm

[12] Wikipedia. Accessed March 9, 2016. “Hydropower in the Mekong River Basin.” https://en.wikipedia.org/wiki/Hydropower_in_the_Mekong_River_Basin#cite_note-11

[13] Thomas Fuller. April 1, 2010. “Countries Blame China, Not Nature, for Water Shortage.” The New York Times. http://www.nytimes.com/2010/04/02/world/asia/02drought.html

[14] Nguyễn Minh Quang. Tháng 10 năm 2014. “Ảnh hưởng của các đập trên phụ lưu sông Mekong.” Chính danh hóa Việt Nam. http://chinhdanhhoavietnam.com/a124/anh-huong-cua-cac-dap-tren-phu-luu-song-mekong

[15] Khánh An – Lê Quân. 16 tháng 1 năm 2016. “Thái Lan ‘nắn’ dòng Mê Kông: Tác dụng ít, tai hại nhiều.” Thanh Niên. http://thanhnien.vn/thoi-su/thai-lan-nan-dong-me-kong-tac-dung-it-tai-hai-nhieu-658451.html

[16] The Bangkok Post. January 24, 2016. “Mekong pumps to ease Isan drought.” The Bangkok Post. http://www.bangkokpost.com/news/general/836792/mekong-pumps-to-ease-isan-drought

[17] Mekong Flows. Accessed March 15, 2016. “Water Abstractions.” Mekongriver.info.http://www.mekongriver.info/water-abstractions

[18] Khonesavanh Latsaphao. November 13, 2015. “Floating Vientiane pump stations to access river water.” Vientiane Times. http://www.vientianetimes.org.la/FreeContent/FreeConten_Floating.htm

[19] Adrian Young. March 2009. Regional Irrigation Sector Review for Joint Basin Planning Process. MRC. http://www.mrcmekong.org/assets/Other-Documents/BDP/BDP2-Irrigation-Sector-Review-Main-Report-Final-Mar2010.pdf

[20] Lacombe, Guillaume; Douangsavanh, Somphasith; Thepphavong, B.; Hoanh, Chu Thai; Bounvilay, B.; Noble, Andrew; Ongkeo, O.; Johnston, Robyn; Phongpachith, C. 2011. “Is there enough water in the Vientiane Plain?” International Water Management Institute. http://www.mpowernetwork.org/Knowledge_Bank/Key_Reports/PDF/Research_Reports/Nam_Ngum_Report_I.pdf

[21] Chawalit Chantararat. 17 september 2015. “Japanese Construction Technology to be utilized for Construction Projects in Thaland and Neighboring Countries. TEAM Consulting International Co. http://www.netisplus.net/seminar/pdf/151001/team.pdf

[22] Philippe Floch, François Molle and Willibald Loiskandl. January 2008. “Marshalling Water Resources: A Chronology of Irrigation Development in the Chi-Mun River Basin, Northeast Thailand.” IRD, M-Power, IWMI, and BOKU. https://www.researchgate.net/publication/280636510_Marshalling_water_resources_a_chronology_of_irrigation_development_in_the_Chi-Mun_river_basin_northeast_Thailand

[23] MRC. 27-28 January 2010. “Cambodia Baseline Assessment Perspective.” Regional Workshop on SEA Baseline Assessment.” Phnom Penh, Cambodia. ICEM. http://www.icem.com.au/documents/envassessment/mrc_sea_hp/2.%20baseline/presentations/pdf/10.%20Cambodia%20Baseline%20Assessment%20Perspective.pdf

[24] Yang Saing Koma, Khim Sophanna and Seng Sophak. January 19, 2011. “Irrigation development in Cambodia: Challenges and Opportunities.” TrustBuilding.https://trustbuilding.wordpress.com/2011/01/19/irrigation-development-in-cambodia-challenges-and-opportunities/

[25] Cambodia Agriculture Value Chain Program (CAVAC). Accessed March 16, 2016. “Promoting Irrigation.” Australian Aid and CAVAC. http://www.cavackh.org/promoting_irrigation/index/en

[26] The Phnom Penh Post. May 31, 2011. “Irrigation project on the Steung Streng river in Northwest Cambodia.” Agro Cambodia. https://agrocambodia.wordpress.com/2011/05/31/irrigation-project-on-the-steung-streng-river/

[27] WLE and ICEM. 16 February 2014. Cambodia case study report. WLE and ICEM. http://www.optimisingcascades.org/wp-content/uploads/2014/04/AAS1205-REP-003-02_Stung-Chinit_final.pdf

[28] The Cambodia Herald. 21 February 2013. “Cambodia launches $200 mln irrigation project in eastern provinces.” The Cambodia Herald. http://www.thecambodiaherald.com/cambodia/cambodia-launches-200-mln-irrigation-project-in-eastern-provinces-3456

[29] Nguyễn Minh Quang., P.E. Tháng 9 năm 2006. “Những vấn để thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long.” Mekonginfo. http://www.mekonginfo.org/assets/midocs/0002375-environment-nhung-van-de-thuy-loi-o-dong-bang-song-cuu-long.pdf

[30] Nguyễn Minh Quang. Tháng 7 năm 2009. ”Mối đe dọa lớn nhất của sông Mekong và hiểm họa thật sự của Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam.” Mekonginfo. http://www.mekonginfo.org/assets/midocs/0003047-inland-waters-m-i-e-d-a-l-n-nh-t-c-a-s-ng-mekong-v-hi-m-h-a-th-c-s-c-a-ng-b-ng-s-ng-c-u-long-vi-t-nam.pdf

[31] MRC. No Date. Lower Mekong Hydrologic Yearbook 2003-2004 (CD-ROM). MRC. Vientiane, Lao PRD.

[32] Trần Bá Hoằng. 16 tháng 2 năm 2016. “Thông báo khẩn cấp về xâm nhập mặn và lấy nước chống hạn Đồng bằng sông Cửu Long.” VKHTL.http://www.siwrr.org.vn/tv3_files/Thong%20bao%20lay%20nuoc_16-2-2016.pdf

[33] Huy Phong – Thư Quỳnh. 14 tháng 3 năm 2016. “Nước mặn đã vào đến Cần Thơ.” Sài Gòn Giải Phóng. http://www.sggp.org.vn/thongtincanuoc/DBCuuLong/2016/3/414598/

[34] Trần Bá Hoằng. 29 tháng 2 năm 2016. “Dự báo xâm nhập mặn tại các cửa sông vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long và đề xuất các giải pháp chống hạn. Cập nhật cuối tháng 2 năm 2016.” VKHTL. http://www.siwrr.org.vn/tv3_files/VKHTLMN_Dubaoman_DBSCL_Cap%20nhat%20Cuoi%20T2_2016_End.pdf

[35] Lê Anh Tuấn. 16 tháng 3 năm 2016. “Hạn, mặn ở ĐBSCL: Có nên trông chờ vào thủy điện TQ?” KinhtếSàigònOnline. http://www.thesaigontimes.vn/143651/Han-man-o-DBSCL-Co-nen-trong-cho-vao-thuy-dien-TQ.html

[36] Sơn Ca. 16 tháng 3 năm 2016. “Thủ tướng cứu nguy ĐBSCL: Lời cam kết từ Trung Quốc.” Đất Việt. http://baodatviet.vn/khoa-hoc/quan-diem/thu-tuong-cuu-nguy-dbscl-loi-cam-ket-tu-trung-quoc-3302968/

[37] Hồng Thủy. 17 tháng 3 năm 2016. “Quan chức, truyền thông Trung Quốc nói gì về xả nước sông Mekong?” Giáo dục Việt Nam. http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Quan-chuc-truyen-thong-Trung-Quoc-noi-gi-ve-viec-xa-nuoc-song-Me-Kong-post166469.gd

[38] Lê Anh Tuấn. 16 tháng 3 năm 2016. “Hạn, mặn ở ĐBSCL: Có nên trông chờ vào thủy điện TQ?” KinhtếSàigònOnline. http://www.thesaigontimes.vn/143651/Han-man-o-DBSCL-Co-nen-trong-cho-vao-thuy-dien-TQ.html

[39] VietnamNet TV. 17 tháng 3 năm 2016. “Đặt hai trạm quan trắc theo dõi Trung Quốc xả nước vào hệ thống sông MeKong.” VietnamNet TV. http://vietnamnettv.vn/trong-nuoc/dat-hai-tram-quan-trac-theo-doi-trung-quoc-xa-nuoc-vao-he-thong-song-mekong-a20160317230051508-c110.html?utm_source=BoxNhung_vietnamnettv.vn&utm_medium=BoxNhung_vietnamnettv.vn&utm_campaign=BoxNhung

[40] Đài Tiếng nói Việt Nam. 13 tháng 3 năm 2016. “Các giải pháp phòng chống hạn mặn cho vựa lúa quốc gia.” Giáo dục Việt Nam. http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Cac-giai-phap-phong-chong-han-man-cho-vua-lua-quoc-gia-post166354.gd
CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)