Quyết định bất ngờ của Tổng thống Obama dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam vào ngày 23/5/2016 vẫn đang là một dấu hỏi lớn đối với giới quan sát.

Một ít nhà phân tích, chủ yếu thuộc phái “phản biện trung thành” cho rằng quyết định trên chỉ đơn giản là Washington cảm thấy lệnh cấm vận đã tồn tại quá lâu và “đã đến lúc gỡ bỏ”, và “điều đó tốt cho lợi ích của hai quốc gia”.
Tuy nhiên, cách lý giải quá chung chung như trên rõ ràng là kém thuyết phục. Một chi tiết rất đáng chú tâm là ngoài Ngoại trưởng John Kerry, có cả Cố vấn an ninh Susan Rice cũng tháp tùng Tổng thống Mỹ trong chuyến thăm Việt Nam tháng Năm 2016. Sự có mặt cùng lúc của bộ ba quyền lực này cho thấy những vấn đề an ninh quan trọng như có bỏ lệnh cấm vận vũ khí hay không chỉ được quyết định vào phút cuối, căn cứ vào một hệ thống kịch bản đã được soạn sẵn.
Trong bối cảnh trên, sau khi tỏ ra “hoan nghênh”, phía Trung cộng bắt đầu có phản ứng khá mạnh, cho rằng động thái Mỹ tuyên bố không gắn việc dỡ bỏ cấm vận vũ khí đối với Việt Nam với việc tìm cách đối đầu với Trung cộng là “dối trá”.
Đài truyền hình Việt Nam (VTV) – một kênh báo đảng – vừa hé lộ một lời giải cho động thái trên của Mỹ. Trong một bài phỏng vấnTS Trần Việt Thái – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Bộ Ngoại giao, VTV đã đặt tựa đề “Lý do Tổng thống Obama dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam vào phút chót”.
Lý giải về quyết định dỡ bõ cấm vận vũ khí của Tổng thống Obama, ông Trần Việt Thái nêu ba lý do chính: “Thứ nhất, đây là di sản của chiến tranh lạnh và không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay. Do vậy, việc dỡ bỏ lệnh cấm này cho thấy quan hệ Việt Nam – Mỹ đã thực sự bình thường. Thứ hai, quyết định này tạo ra nhiều cơ hội và phục vụ lợi ích của Mỹ cũng như các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hợp tác. Tiếp đến, điều này cũng mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội, nhiều sự lựa chọn hơn trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Mặc dù không đề cập đến cụm từ “vào phút chót” như hàm ý trong tựa đề bài phỏng vấn của VTV, nhưng lý do thứ ba mà ông Thái nêu ra “bảo vệ Tổ quốc” rất có thể là nguồn cơn chủ yếu dẫn đến sự kết thúc quá trình mặc cả giữa Mỹ và Việt Nam về những nội dung liên quan đến cấm vận vũ khí, quân sự và quốc phòng.
Trong chính sách xoay trục về châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, hiển nhiên lợi ích lớn nhất của Mỹ ở Biển Đông là bảo đảm an ninh an toàn hàng hải cùng tàu bè kinh thương của Mỹ. An ninh Biển Đông lại liên quan mật thiết với các căn cứ quân sự của Việt Nam ở Cam Ranh và Đà Nẵng. Vài ngày trước khi Tổng thống Obama đến Hà Nội, đã xuất hiện tin tức về “có khả năng Mỹ được đặt thiết bị quân sự ở Đà Nẵng để giúp phòng tránh thiên tai”. Phải chăng đó là tiền đề cho sự hiện diện cao hơn và dày hơn của đội ngũ cố vấn và binh lính Mỹ ở vùng duyên hải miền Trung Việt Nam?
Nếu quả thật Mỹ nhận được cam kết của Việt Nam về tăng cường hiện diện quân sự Mỹ ở khu vực Biển Đông, thậm chí có cả một thỏa thuận ngầm nào đó về việc tàu chiến Mỹ có thể ra vào quân cảng Cam Ranh, đó sẽ là lý do đủ lớn và đủ vững để Mỹ thấy “đã đến lúc” dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương.
Nếu quả thật có một “thỏa thuận quân sự” giữa Mỹ và Việt Nam trong chuyến đi của Obama, nhiều khả năng là hai quốc gia này đều không công bố thông tin tuyệt mật ấy. Tuy nhiên, người ta có thể nhìn vào phản ứng của Trung cộng để xác nghiệm.
Vài tờ báo quốc tế đã bắt đầu để cập việc Trung cộng “nổi giận” khi chứng kiến Mỹ dỡ bỏ cấm vận vũ khí cho Việt Nam.
Trong những tháng tới, nếu Trung cộng tái diễn hành vi gây hấn với mức độ cao hơn đối với Việt Nam, cùng lúc diễn ra những hoạt động “giao lưu hải quân” dày hơn của Mỹ tại Đà Nẵng và Cam Ranh, có thể cho rằng “thỏa thuận quân sự” giữa Mỹ và Việt Nam đang được triển khai.
Khi đó, chính sách “không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam” của chính thể này sẽ có thể ít hoặc không được nhắc đến nữa.
Lê Dung / SBTN