(VNTB) – Nhà nước biến việc tham gia WTO để biến Việt Nam thành một quốc gia làm thuê, biến (rất nhiều) người Việt Nam thành người làm thuê cho nước ngoài với mức lương rẻ mạt, không đủ sống và điều kiện làm việc tồi tệ.
Trong những năm đầu tiên của thập niên đầu tiên của Thế kỷ 21, Việt Nam là một quốc gia nghèo, tỷ lệ thất nghiệp cao. Việt Nam cần thêm các doanh nghiệp để tạo thêm công việc. Các nhà đầu tư nước ngoài cần nhân công và giá thuê đất rẻ. Việc tham gia WTO khiến hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng mức thuế quan thấp hơn. Do đó, nhà đầu tư có thêm động lực đổ vốn vào Việt Nam. Lượng đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam vào khoảng 2 tỷ Mỹ Kim trong năm 2006, trước khi vào WTO, đã tăng lên trên 6 tỷ trong năm 2007, ngay sau khi gia nhập WTO. Nhờ đó, kinh tế tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống đáng kể.
Vì cam kết với WTO, luật pháp, thủ tục hành chính và môi trường kinh doanh được cải tiến đáng kể so với trước đó.
Tuy vậy, do thể chế độc tài, lấy mục tiêu tăng trưởng kinh tế làm trọng và định hướng ưu tiên phát triển doanh nghiệp nhà nước, kìm hãm kinh tế tư nhân, nhà nước đã gây ra nhiều thiệt hại cho quốc gia.
Thứ nhất, một mặt do nhà nước tập trung tiền thuế thu được và tiền vay nước ngoài vào để phát triển các công ty nhà nước và nỗ lực này thất bại. Điều này dẫn đến việc lãng phí nguồn tài chính khan hiếm và làm tăng mức nợ công. Mặt khác, nguồn tài chính này đã không được dùng để giúp các doanh nghiệp tư nhân trong nước phát triển, giúp gia tăng trình độ của các cơ quan nghiên cứu và người lao động, và trình độ khoa học công nghệ của quốc gia. Điều này dẫn đến tình trạng Việt Nam không có một công ty trong nước nào có trình độ công nghệ tiên tiến sau hơn 30 năm mở cửa và gần 30 tham gia WTO. Trong khi đó, Hàn Quốc và Đài Loan đã có những công ty hàng đầu thế giới như TSMC và Samsung từ đầu Thế kỷ 21.
Thứ hai, do đặt trọng tâm thu hút đầu tư nước ngoài, nhà nước cố gắng kìm mức lương của nhân công. Có thể nói, công nhân Việt Nam làm 8 giờ/ngày và 6 ngày một tuần thì không đủ ăn. Chưa nói tới chuyện tích lũy để lo cho con ăn học và mua một căn nhà làm chỗ ở cho gia đình. Có thể nói, nhà nước bóc lột sức lao động của người dân, đặc biệt là công nhân, để phát triển kinh tế.
Thứ ba, cũng do đặt trọng tâm thu hút đầu tư nước ngoài, nhà nước bất chấp các hệ quả về môi trường, bất chấp các tác hại đến sức khỏe của người dân, đến quyền lợi của nông dân và ngư dân mà vụ Formosa là một điển hình.
Cuối cùng nhưng không phải nhỏ, một mặt do là một chế độ độc tài nên rất khó kiểm soát tham nhũng. Thậm chí, không loại trừ khả năng nhà nước để quan chức tham nhũng để họ được lợi và trung thành với chế độ. Một mặt khác, vì không thể vòi vĩnh doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp của Hoa Kỳ và Tây Âu, (nhà nước để mặc cho) các quan chức nhũng nhiễu các doanh nghiệp tư nhân trong nước và làm cho các doanh nghiệp này khó phát triển hơn.
Tóm lại, nhà nước biến việc tham gia WTO để biến Việt Nam thành một quốc gia làm thuê, biến (rất nhiều) người Việt Nam thành người làm thuê cho nước ngoài với mức lương rẻ mạt, không đủ sống và điều kiện làm việc tồi tệ.
Do là người làm thuê và quốc gia làm thuê có trình độ thấp nên khi đến một ngưỡng phát triển cụ thể, khi mức lương của người lao động tăng đến một mức nhất định thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển doanh nghiệp của họ qua các quốc gia nghèo hơn. Khi đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ chững lại. Thu nhập của người dân sẽ ngừng tăng.
Để giải quyết tình trạng này, các quốc gia làm thuê và có trình độ khoa học công nghệ thấp như Việt Nam sẽ tham gia cuộc đua xuống địa ngục (the race to the bottom). Nơi đó, người lao động làm không đủ ăn và trong môi trường làm việc tồi tệ.