Phúc đáp chất vấn chung của Các Thủ Tục Đặc biệt Thủ tục về ông Trương Duy Nhất và Siam Theerawut
Tham chiếu. AL VNM 4/Năm 2020 (ngày tháng 11 Tháng mười hai Năm 2020)
Các cáo buộc trong bản chất vấn chung không phản ánh chính xác bản chất của vụ việc này, nhiều lập luận được dựa trên các nền tảng thông tin chưa được xác minh và định trước ý tưởng trong khi thông tin về Việt Nam do chính phủ Việt Nam cung cấp đã không được xem xét phù hợp. Việt Nam phản đối các cáo buộc về trì hoãn thông báo bắt giữ và biệt giam ở Việt Nam. Công tác điều tra, truy tố, xét xử và chấp hành án đối với ông Trương Duy Nhất đã được thực hiện dựa theo nền tảng pháp lý, tôn trọng đầy đủ các quyền lợi của ông Trương Duy Nhất theo luật pháp Việt Nam. Thông qua trường hợp này, Việt Nam một lần yêu cầu các Thủ tục Đặc biệt nên căn cứ vào các thông tin đáng tin cậy và xác minh để đề cập đến các vấn đề thực sự phản ánh bản chất của các vụ việc thích hợp trong thông tin liên lạc..
1. Thông tin về ông Trương Duy Nhất
Ông Trương Duy Nhất, sinh năm 1964, hộ khẩu tại ….
Ngày 9/3/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm và kết án ông Trương Duy Nhất 10 năm tù giam vì đã “lạm dụng chức vụ và/hoặc thẩm quyền” theo khoản 3 điều 356 Bộ Luật Hình Sự 2015. Ngày 14/08/ 2020, Tòa án nhân dân Hà Nội đã xử phiên phúc thẩm và quyết định y án theo như bản án đã tuyên tại phiên sơ thẩm. Ông Trương Duy Nhất bị giam giữ tại trại giam số 3 ( Nghệ An) và trong điều kiện sức khoẻ bình thường.
Về tiến trình tố tụng và căn cứ luật cho việc bắt giữ ông Trương Duy Nhất, Việt Nam cung cấp thông tin đầy đủ và cô đọng trong phúc thư trước gửi đến các Thủ tục Đặc Biệt; vì vậy, Việt Nam yêu cầ các Thủ tục Đặc Biệt nên tham khảo lại các phúc thư. Việt Nam một lần nữa nhấn mạnh rằng ông Trương Duy Nhất đã được truy tố và xét xử vì tội làm dụng chức vụ và thẩm quyền chứ không phải vì thực hiện các quyền tự do căn bản. Các quyết định khởi tố và tạm giam ông Trương Duy Nhất đã được chính quyền và các bên liên quan làm chứng, biên bản bắt giữ cũng do ông Trương Duy Nhất và các bên ký tên; thủ tục tiến hành tố tụng của các cơ quan điều tra đều được các cơ quan có thẩm quyền giám sát chặt chẽ.
2. Về tiến trình tố tụng theo luật Việt Nam
Các cáo buộc rằng một số điều khoản của luật Việt nam trong thực hành chính quy hóa các thi hành sự không đồng ý và “incommunicado sự giam giữ” cho a Dài thời gian Chúng tôi chủ quan và dựa trên trên định trước ý tưởng trong khoảng Việt Nam, Việt Nam từ chối những cái này cáo buộc. Các điều khoản cần được xem xét đầy đủ và đặt trong hoàn cảnh riêng; cần tránh trích dẫn ra từng đoạn nhỏ dễ dẫn đến nguyên nhân gây hiểu lầm.
Các cáo buộc cho rằng một số điều khoản của pháp luật Việt Nam trên thực tế quy định việc mất tích ép buộc và “biệt giam” trong một thời gian dài là chủ quan và dựa trên những định kiến về Việt Nam, Việt Nam bác bỏ những cáo buộc này. Các quy định pháp luật cần được xem xét thỏa đáng và đặt trong hoàn cảnh cụ thể; cần tránh trích dẫn một đoạn văn nhỏ để gây hiểu lầm.
– Theo đến Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân 2014, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan “thực thi các quyền truy tố và giám sát hoạt động tư pháp”, “có các nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp và pháp luật, quyền con người và quyền công dân”, do đó “góp phần đảm bảo nghiêm ngặt và thống nhât sự tuân thủ của pháp luật”. Theo đó, mỗi vự bắt giữ và tạm giam của cơ quan điều tra phải được Viện kiểm sát nhân dân chấp thuận và giám sát nhằm đảm bảo tuân thủ các thủ tục theo luật định.
– Điều 116 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 ( về trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp) quy định rằng người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người phải thông báo ngay cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, bị bắt phải thông báo cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết; trường hợp người bị giữ, người bị bắt là công dân nước ngoài thì phải thông báo cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam để thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước có công dân bị giữ, bị bắt.
– Điều 116 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 chỉ cho phép hoãn thông báo việc bắt giữ nếu việc thông báo cản trở truy bắt đối tượng khác hoặc cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt phải thông báo ngay. Điều khoản này là cần thiết để đảm bảo rằng việc điều tra được tiến hành chính xác, khách quan và kịp thời, và để ngăn chặn bỏ sót tội phạm kết án oan sai đối với người vô tội.
– Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ( Thời điểm người tham gia tố tụng bào chữa) quy định rằng Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
– Bên cạnh đó, Trường hợp đặc biệt đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định “nếu không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.” ( Khoản 5 điều 173). Khoản 7 điều 173 cũng quy định rằng Trong thời hạn tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác và người bị tạm giam phải được trả tự do khi hết thời hạn tạm giam.
– Điều 22 của Luật thi hành tạm giam và bắt giam 2015 quy định nếu việc thăm gặp không làm ảnh hưởng đến các hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền. Khoản 4 điều 22 Luật thi hành tạm giữ và tạm giam 2015 quy định Thủ trưởng cơ sở giam giữ không đồng ý cho thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải nêu rõ lý do, trong đó có lý do từ người bị bắt, người bị tạm giữ và thân nhân của họ; sự cần thiết phải bảo vệ an toàn cơ sở tạm giữ, người bị tạm giữ, người bị tạm giữ và thân nhân của họ; hoặc các thủ tục tố tụng đang diễn ra không cho phép gặp gỡ giữa người bị bắt, người bị tạm giữ và thân nhân của họ.
Bên cạnh đó, người bị giữ và người bị tạm giữ có quyền khiếu nại nếu họ nhận thấy quyết định của cơ quan tố tụng vi phạm luật và quyền cũng như nghĩa vụ hợp pháp của họ.
– Về các biện pháp thông báo chính xác cho thân nhân của bị cáo hoặc nơi giam giữ và điều kiện giam giữ, Luật tố tụng hình sự 2015 gồm có các khoản sau: (I) Điều 116 về thông báo tại giữ và tạm giam trong trường hợp khẩn cấp; (ii) Khoản 6 điều 119 về tạm giam; (iii) khoản 1 điều 142 về trách nhiệm cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng. Ngoài ra Luật tạm giam và bắt giữ 2015 quy định người bị kết án được cung cấp thông tin trong các trường hợp sau: (I) Khoản1 điều 26 về việc thông báo cho gia đình về nơi người bị giam và tạm giam tử vong ở đâu; (ii) điều 30 về việc thông báo với gia đình nếu việc người bị bắt giữ và tạm giam bị bệnh hoặc bị thương…
Các điều khoản nêu trên của luật Việt Nam cho thấy rõ ràng các giới hạn, các trường hợp đặc biết được áp dụng các điều khoản đặc biệt cũng như các điều kiện rõ ràng và cụ thể được áp dụng đối với từng trường hợp.
3. Bảo đảm quyền lợi của ông Trương Duy Nhất
Ông Trương Duy Nhất hiện bị giam giữ tại Trung tâm giam giữ số 3, sức khoẻ của ông bình thường, Trong thời gian bị tàm giam tại trung tâm giam giữ T16 của Bộ của Công cộng Công An, ông Trương Duy Nhất đã có gặp thân nhân 10 lần và gặp luật sư bào chữa 8 lần. Phòng giam của ông Nhất thoáng khí và tỷ lê phòng giam đáp ứng các têu chí của khoản 4 điều 27 luật Giam giữ và Bắt giữ 2015.
– Suốt trong của thời gian tạm giam, ông Trương Duy Nhất đã có nhận những món quà từ của người thân khi nào được gặp mặt theo các tiêu chí thuộc khoản 2 điều 27 của Luật Tạm giam và bắt giữ 2015 và khoản 1 điều 9 Chỉ thị số 34/2017/TT-BCA của Bộ Công An về việc người bị giam giữ được gặp thân nhân, nhận quà, gửi nhận thư, sách báo và tài liệu.
– Về việc bán hàng hoá tại cửa hàng trong trại giam: Hàng hoá bán tại cửa hàng trong trại giam là những mặt hàng thiết yếu như kem đánh răng, xà bông, dầu gội đầu…, giá bán các mặt hàng được cán bộ trại giam quy định dựa trên giá bán tại thị trường địa phương và chi phí vận chuyển, lưu trữ, và bảo tồn nhưng không được quá 10% giá bán tại cửa hàng trong trại giam; giá cả được niêm yết công khai tại cửa hàng.
4. Trường hợp của ông Siam Theerawut
Thông qua việc tìm kiếm trên hệ thống quản lý người nhập cảnh vào Việt Nam, cơ quan thẩm quyền không tìm thấy bất kỳ thông tin nào liê qua đến một người có quốc tịch Thai Lan mang tên Siam Theerawut đã nhập cảnh vào Việt Nam.
Thông tin về vụ việc này không thể kiểm chứng và tìm kiếm được ở Việt Nam. Đề nghị Các Thủ tục Đặc biệt cung cấp thông tin chính xác hơn ( ví dụ như hình ảnh, đặc điểm, qua hệ hoặc trao đổi giữa ông Siam Theerawut với các cá nhân và tổ chức tại Việt Nam trước khi ong Theerawut mất tích) để cơ quan thẩm guyền có thể điều tra. Trong trường hợp những yêu cầu trên không được cung cấp, Việt Nam yêu cầu Các Thủ tục Đặc Biệt đóng hồ sơ và ngưng yêu cầu Việt Nam cung cấp thông tin./.
Nguồn: OHCHR