(Tiếp theo phần 1: Tại sao Trung Quốc sẽ không thể vượt được Mỹ? Cường quốc hiện tại và tương lai)
Stephen G. Brooks và William C. Wohlforth
Foreign Affairs, tháng 5-6, 2016
Vũ Quốc Ngữ lược dịch
(VNTB) – Khả năng của Trung Quốc để trở thành siêu cường bị đánh giá không cao bởi một điều khác nữa: quốc gia này rất yếu đuối trong việc thực hiện những hy sinh cần thiết.
Trong những năm 1930, Nhật Bản thoát khỏi vực sâu của đình đốn và biến thành một bộ máy quân sự khổng lồ, Đức chuyển từ kẻ thua cuộc bị tước vũ khí sau Chiến tranh Thế giới I thành một người khổng lồ có khả năng chinh phục châu Âu, và Liên Xô hồi phục từ cuộc chiến tranh và cách mạng để trở thành một quốc gia đáng gờm về sức mạnh mặt đất. Những thập kỷ tiếp theo đã thấy nước rút của Hoa Kỳ lên siêu cường toàn cầu, với quốc gia hạt nhân Liên Xô gần sát gót. Hôm nay, có rất ít dự đoán nghiêm túc về một cuộc chiến tranh thế giới, hay thậm chí là một cuộc chiến tranh lạnh, nhưng nhiều nhà quan sát cho rằng những kinh nghiệm quá khứ cho thấy nhiều nước có thể trở nên nguy hiểm một cách nhanh chóng khi chúng cố gắng phát triển tiềm năng quân sự từ nền kinh tế của mình.
Nhưng những gì đang diễn ra bây giờ không phải là chuyển giao quyền lực thời của thời cách đây năm mươi năm. Người ta có thể tranh luận về việc liệu Trung Quốc sẽ sớm đạt đến cột mốc quan trọng đầu tiên trên hành trình từ sức mạnh của một nước lớn lên vị trí siêu cường khi nước này có các nguồn lực kinh tế cần thiết. Tuy nhiên, một nền kinh tế khổng lồ sẽ không làm cho Trung Quốc trở thành siêu cường thứ hai thế giới, cũng như không thể khắc phục những trở ngại lớn tiếp theo để đạt năng lực công nghệ cần thiết. Sau đó là sự thách thức trong việc chuyển tất cả sức mạnh tiềm tàng này vào các hệ thống cần thiết cho triển khai sức mạnh toàn cầu và học cách sử dụng chúng. Mỗi bước ngốn nhiều thời gian và đầy rẫy khó khăn. Kết quả là, trong một thời gian dài,Trung Quốc sẽ tiếp tục di chuyển ở đâu đó giữa một quốc gia lớn và một siêu cường. Bạn có thể gọi nó là “một siêu cường tiềm năng mới nổi”: cho dù có tăng trưởng kinh tế, Trung Quốc sẽ mất một thời gian rất dài để có thể đạt được khả năng kinh tế và công nghệ đủ mạnh để trở thành một siêu cường.
Khả năng của Trung Quốc để trở thành siêu cường bị đánh giá không cao bởi một điều khác nữa: quốc gia này rất yếu đuối trong việc thực hiện những hy sinh cần thiết. Mỹ có khả năng quân sự vô biên nhờ những chi phí khủng trong chiến tranh lạnh. Trung Quốc không có những nhà hoạch định chính sách từng đối mặt với những thách thức của việc cân bằng với Liên Xô, một siêu cường với khả năng thống trị khu vực Á-Âu. (Trên thực tế, không có gì ngạc nhiên khi hai thập kỷ rưỡi sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga là nước có tiềm lực quân sự mạnh thứ hai trên thế giới.) Ngày nay, Trung Quốc không phải đối mặt với những áp lực giống như thời chiến tranh lạnh đã khiến Hoa Kỳ đầu tư rất nhiều vào phát triển quân sự. Hoa Kỳ là một siêu cường ít đe dọa hơn so với Liên Xô, cho dù những người hoạch định chính sách của Trung Quốc có hay thổi phồng chăng nữa thì nước Mỹ không tạo ra nỗi sợ hãi như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Tuy nhiên, nước Mỹ có ít lý do để rời khỏi vị trí siêu cường, nhờ vào mạng lưới các đồng minh mà nước này đã xây dựng lên. Một danh sách các đồng minh của Mỹ là những nước có nền kinh tế phát triển nhất thế giới, và những đồng minh này làm cho Washington tiết giảm chi phí quân sự để giữ vị trí siêu cường. Chi phí quân sự của Mỹ chiếm khoảng 3% GDP trong những năm cuối của thập kỷ 1990 và tăng lên 5% trong thập kỷ tiếp theo vì những cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq, và giờ đây lại tụt xuống gần mức 3%. Washington có thể duy trì một khả năng quân sự toàn cầu với nỗ lực tương đối ít một phần nhờ vào các căn cứ ở các nước đồng minh và các vũ khí hiện đại nhất mà Mỹ giúp họ phát triển. Đồng minh quân sự duy nhất của Trung Quốc là Bắc Triều Tiên, nước thường mang lại nhiều rắc rối hơn là đóng góp.
Với những rào cản trên con đường của Trung Quốc lên vị thế siêu cường, cũng như các ưu đãi nhỏ để cố gắng để vượt qua chúng, tương lai của hệ thống quốc tế phụ thuộc vào việc liệu Hoa Kỳ có tiếp tục gánh chịu chi phí để duy trì những gì chúng ta và những người khác gọi “tham gia sâu” vào đại chiến lược toàn cầu, như Mỹ đã theo đuổi trong 70 năm qua. Căn cứ vào những lợi thế sẵn có, Washington sẽ duy trì được vị trí siêu cường về quân sự, liên minh, và những cam kết bảo vệ các khu vực trọng điểm, nền kinh tế toàn cầu, và tăng cường hợp tác về các vấn đề xuyên quốc gia.
Những lợi ích của đại chiến lược này có thể khó khăn để nhận thấy, đặc biệt là trong bối cảnh một số phiêu lưu sai lầm của Hoa Kỳ ở nước ngoài trong những năm gần đây. Những thất bại như cuộc chiến ở Iraq như nhắc nhở về việc sử dụng vũ lực để thay đổi chính trị ở nước ngoài. Nhưng sức mạnh thể hiện ở việc ngăn chặn các kết quả không thuận lợi và tạo ra những thuận lợi, và thực tế Washington đã làm tốt hơn nhiều so với những gì mà hầu hết người Mỹ có thể nghĩ tới.
Đối với một siêu cường thế giới, có đủ sức mạnh để phát hiện và ngăn chặn thách thức có giá trị hơn việc có khả năng cải thiện vị trí của một nước lớn. Một mục tiêu quan trọng của chiến lược Mỹ trong nhiều thập kỷ là ngăn chặn sự nguy hiểm từ khi nó phát sinh, và thành công trong nỗ lực này có thể đo được phần lớn bởi sự thiếu vắng những điều hay xảy ra trong lịch sử: khu vực quan trọng mất ổn định bởi tình huống an ninh khó xử nghiêm trọng, liên minh suy yếu không thể đối phó với những kẻ thách thức, vũ trang hóa nhanh chóng, chạy đua vũ trang giữa các siêu cường, sự xuống dốc của các khối quân sự và kinh tế.
Nếu Washington thực sự rút lui khỏi thế giới, nhiều thách thức hơn sẽ xuất hiện, và các mối đe dọa xuyên quốc gia có khả năng sẽ xuất hiện thậm chí còn lớn hơn những gì chúng làm hôm nay. Ngay cả khi các mối đe dọa như vậy không phát triển, nhiệm vụ giải quyết chúng sẽ trở nên vô cùng khó khăn hơn nếu Hoa Kỳ phải vật lộn với một trật tự toàn cầu ít ổn định cùng một lúc. Và khó khăn như đã có trong vài thời điểm là việc Hoa Kỳ thúc đẩy các liên minh để giải quyết những thách thức xuyên quốc gia, và Hoa Kỳ sẽ gặp khó khăn hơn để làm như vậy nếu nước này thoái vị vai trò lãnh đạo của mình và lui về khu vườn của nhà mình, như nhiều nhà phân tích và hoạch định chính sách và một số lượng lớn công chúng đang kêu gọi.
Đừng đưa nước Mỹ sa vào cám dỗ
Kể từ sự sụp đổ của Liên Xô, lợi thế sức mạnh của Hoa Kỳ đối với các quốc gia khác đi kèm các nguy cơ tự gây thương tích, như đã xảy ra ở Iraq. Nhưng sự suy giảm vai trò kinh tế của Hoa Kỳ có thể có tác dụng có lợi khi buộc các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ phải tập trung hơn vào nhiệm vụ cốt lõi của chiến lược lớn của đất nước chứ không phải bị hút vào cuộc xung đột ngoại vi lộn xộn. Thật vậy, điều này được thể hiện rõ trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Barack Obama. Tuy nhiên, một thế giới với ưu thế quân sự của Mỹ và suy giảm thống trị kinh tế của quốc gia này sẽ là những bài kiểm tra khả năng của Hoa Kỳ, trong bốn cách chính.
Đầu tiên là sự cám dỗ để bắt nạt hoặc khai thác các đồng minh của Mỹ cho lợi ích của chính nước Mỹ. Đồng minh của Mỹ phụ thuộc vào Washington trong nhiều cách, và cũng mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ, bằng việc đồng ý với các chính sách tranh cãi của Mỹ, hạn chế các hoạt động mà Hoa Kỳ phản đối, hoặc đồng ý với các điều khoản không cân bằng trong các hiệp ước cùng có lợi. (Hãy suy nghĩ về yêu cầu thường xuyên của ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa Donald Trump rằng Hoa Kỳ luôn thua trong các giao dịch với người nước ngoài, bao gồm cả đồng minh quan trọng, và rằng ông sẽ khôi phục khả năng của đất nước để giành chiến thắng.) Nhưng hợp đồng cơ bản tại trung tâm của trật tự quốc tế hiện đại là nếu các thành viên của nó đặt sang một bên những cuộc tìm kiếm lợi thế quân sự tương đối, và tham gia một mạng lưới dày đặc của hệ thống thể chế, và đồng ý theo luật chơi chung, và khi đó Hoa Kỳ sẽ không tận dụng ưu thế của nó để lấy lợi nhuận không đáng có từ đồng minh của nó. Sẽ là đòi hỏi quá nhiều để hy vọng Washington không bao giờ sử dụng lợi thế của mình để có giao ước có lợi cho nước Mỹ hơn, và một loạt các tổng thống, trong đó có John F. Kennedy, Ronald Reagan, George W. Bush và Obama đã làm như vậy ở nhiều thời điểm khác nhau. Nhưng nếu Washington quá thường xuyên sử dụng quyền lực của mình để đạt được lợi ích ích kỷ của mình chứ không phải là để bảo vệ và thúc đẩy hệ thống như một khối, sẽ có nguy cơ thực sự làm xói mòn tính hợp pháp của vai trò lãnh đạo của Mỹ cũng như ảnh hưởng xấu đến trật tự hiện có.
Thứ hai, Mỹ sẽ ngày càng có xu hướng phản ứng thái quá khi các quốc gia khác, như Trung Quốc sử dụng sức mạnh kinh tế đang phát triển của họ trên sân khấu thế giới. Hầu hết các cường quốc đang lên gần đây, trong đó có Đức, Nhật Bản, và Liên Xô, đã có sức mạnh quân sự nhiều hơn sức mạnh kinh tế. Trung Quốc, ngược lại, có sức mạnh kinh tế mạnh hơn sức mạnh quân sự trong vài thập kỷ. Đây là một điều tốt, vì những thách thức quân sự cho trật tự toàn cầu có thể biến đổi xấu xí một cách nhanh chóng. Nhưng nó có nghĩa là Trung Quốc sẽ gắn kết những thách thức kinh tế, và điều này sẽ cần phải được xử lý một cách khôn ngoan. Hầu hết các nỗ lực của Trung Quốc trong những xu hướng này làm cho trật tự hiện có thay đổi nhỏ mà không đe dọa các thỏa thuận hoặc các nguyên tắc cơ bản của trật tự. Washington cần phải phản ứng một cách mềm mỏng và kiên nhẫn, và nên nhận ra rằng chỉ phải trả một mức giá khiêm tốn trong việc đưa Trung Quốc vào trong trật tự thay vì mạo hiểm gây ra một thách thức nguy hiểm cho cơ cấu hiện hành.
Các cuộc tranh cãi mới đây về cơ sở hạ tầng Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Châu Á (AIIB) là một ví dụ điển hình của việc không nên hành xử. Trung Quốc đề xuất thành lập AIIB vào năm 2013 như một phương tiện để củng cố vị thế của mình và cung cấp đầu tư phát triển hạ tầng ở châu Á. Mặc dù tiêu chí của nó đối với các khoản vay có thể ít mang tính xây dựng hơn mong muốn, nhưng nó không có khả năng làm tổn hại lớn đến khu vực hoặc làm suy yếu cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu. Và Hoa Kỳ phản ứng bằng cách tung ra một chiến dịch ngoại giao để ngăn cản sự gia nhập của các đồng minh. Tuy nhiên, các nước đã không ngại sự phản đối của Hoa Kỳ và tham gia ngay lập tức. Như thế Washington đã tạo ra một cuộc chiến không cần thiết mà kết thúc bằng một thất bại ngoại giao nhục nhã. (Một thất bại của Quốc hội Hoa Kỳ trong việc thông qua Đối tác xuyên Thái Bình Dương như đã đàm phán, có thể sẽ là một thất bại lớn hơn, dẫn đến sự nghi ngờ về địa vị thống trị toàn cầu Hoa Kỳ.)
Thứ ba, Hoa Kỳ vẫn sẽ phải đối mặt với sự cám dỗ mà chúng luôn luôn đi kèm với quyền lực, đó là can thiệp vào những nơi không có lợi ích quốc gia cốt lõi của nó (hoặc để mở rộng định nghĩa về lợi ích quốc gia cốt lõi của nó quá nhiều nhưng rỗng trong khái niệm). Cám dỗ này có thể tồn tại ở những siêu cường-Mỹ đã sa lầy ở Việt Nam trong thời chiến tranh lạnh, cũng như Liên Xô ở Afghanistan sau này, và nó tồn tại ngày hôm nay, tại một thời điểm khi Hoa Kỳ không có đối thủ ngang hàng . Obama đã bảo vệ cẩn thận chống lại sự cám dỗ này. Ông thu hút nhiều sự chỉ trích vì ưu tiên “Đừng làm những thứ ngu ngốc” nhằm đạt được siêu chiến lược. Nhưng nếu làm những điều ngu ngốc đe dọa khả năng của Hoa Kỳ trong việc duy trì siêu chiến lược và tương quan toàn cầu hiện tại, ông đã thể. Trong gần bảy thập kỷ, nước Mỹ duy trì lợi ích cốt lõi bằng việc tạo ra sự ổn định ở các vùng trọng điểm và giữ cho nền kinh tế toàn cầu phát triển rộng hơn.
Cuối cùng, Washington sẽ cần phải tránh áp dụng các biện pháp quân sự quá tích cực ngay cả khi lợi ích cốt lõi đang bị đe dọa, chẳng hạn như với lập trường ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở ngoại vi của nó. Đúng là chính sách “chống tiếp cận / khu vực từ chối” của Bắc Kinh ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của máy bay và tàu chiến Mỹ (nhưng không phải tàu ngầm) gần Trung Quốc. Làm thế nào Washington nên đáp ứng thế nào trước thách thức về khả năng quân sự cục bộ của Bắc Kinh phụ thuộc vào những mục tiêu chiến lược của Washington. Để lấy lại tất cả sự tự do quân sự mà Mỹ từng hưởng trong sự thống trị tuyệt đối của nó trong suốt những năm 1990 quả thật là khó khăn, và các hành động cần thiết sẽ làm tăng nguy cơ đối đầu trong tương lai. Tuy nhiên, nếu mục tiêu của Washington chỉ giới hạn ở việc đảm bảo an ninh cho các đồng minh khu vực và duy trì một thể chế và kinh tế thuận lợi, thì thách thức có thể đối phó được.
Bằng việc áp dụng chiến lược khu vực từ chối riêng của nó, ví dụ, Hoa Kỳ có thể vẫn còn ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc và bảo vệ các đồng minh của Hoa Kỳ mặc cho sức mạnh quân sự đang gia tăng của Trung Quốc. Không giống như luận thuyết Chiến tranh biển-không trung trong một cuộc xung đột Thái Bình Dương, cách tiếp cận này sẽ không hình thành sự thù địch dấn tới cuộc tấn công trên đất liền của Trung Quốc. Thay vào đó, nó sẽ được thiết kế để ngăn chặn khả năng của Trung Quốc trong một cuộc xung đột. Theo chiến lược có “chuỗi đảo đầu tiên”, bao gồm các bộ phận của Nhật Bản, Philippines và Đài Loan, Hoa Kỳ và các đồng minh sẽ sử dụng sự kết hợp nhiều sức mạnh quân sự, bao gồm mìn và tên lửa di động chống tàu mà chính Trung Quốc đã sử dụng để đẩy tàu nổi của Hoa Kỳ và máy bay ra khỏi bờ biển của nó. Chiến lược này có thể buộc Trung Quốc phải chiến đấu trong những lĩnh vực mà nó còn rất yếu như chiến tranh dưới mặt nước.
Những tiền đề của một chiến lược như vậy là ngay cả khi Trung Quốc đã có thể đối phó được với áp lực mặt đất của Hoa Kỳ và ngăn cản máy bay tiếp cận đến khu vực gần bờ biển của nó, Bắc Kinh sẽ không thể sử dụng không gian đó như là một bệ phóng cho quân đội của nó trong một cuộc xung đột. Vùng nước ven biển của Trung Quốc, trong kịch bản này, sẽ biến thành một khu vực không người và không một nước nào có thể sử dụng tàu mặt nước và máy bay. Tình hình bây giờ khác xa những năm 1990, khi Trung Quốc không thể ngăn chặn sức mạnh quân sự hàng đầu thế giới trong việc tiếp cận không phận và đại dương của nước này từ ngay khu vực biên giới của nó. Sự thay đổi này xảy ra sau khi Trung Quốc đổ hàng chục tỷ đô la trong mấy thập kỷ qua để khắc phục những yếu kém, những điều mà Hoa Kỳ sẽ không bao giờ chấp nhận cho chính nó.
Trong khi chiến lược khu vực từ chối này sẽ giúp giải quyết vấn đề lâu dài, nó sẽ không có tác dụng để giải quyết các thách thức hiện tại từ Trung Quốc: Trung Quốc đang xây các cơ sở quân sự trên hòn đảo nhân tạo ở vùng biển Đông. Không có câu trả lời dễ dàng, nhưng Washington nên tránh phản ứng quá hung hăng vì có thể châm ngòi cho một cuộc xung đột. Sau tất cả, các hòn đảo nhỏ này không làm thay đổi cán cân quân sự tổng thể, và Trung Quốc không thể bảo vệ chúng trong một cuộc xung đột. Sự bành trướng của Trung Quốc sẽ vấp phải nhiều phản đối. Năm ngoái, Philippines, một dãy đảo với nhiều căn cứ cực kỳ có giá trị quốc phòng, hoan nghênh các lực lượng Hoa Kỳ trở lại sau 24 năm. Và Hoa Kỳ hiện nay đang đàm phán để sử dụng một căn cứ cho máy bay ném bom tầm xa ở Úc.
Cho đến nay, chính quyền Obama đã chọn đòi hỏi tự do hàng hải để đối phó lại với những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông. Hoa Kỳ và các đồng minh nên tăng cường cho tàu thuyền đi lại trên những khu vực mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Một phương án khác là sử dụng luật quốc tế. Liên tục yêu cầu Trung Quốc đưa tuyên bố chủ quyền ở biển Đông lên tòa án quốc tế, và nếu nước này cứ từ chối, nó sẽ mất tính hợp pháp và có thể bị trừng phạt về ngoại giao và cấm vận. Và nếu Bắc Kinh cố gắng khai thác lợi ích kinh tế từ các khu vực tranh chấp, Washington có thể sử dụng chiến lược sử dụng Tòa án Trọng tài Thường trực ở The Hague xác định các lợi ích của các hành động bất hợp pháp của Trung Quốc, đặt mức thuế tạm thời về hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trong khi những tuyên bố chủ quyền đang được phán xét, và sau đó phân phối lại một khi vấn đề được giải quyết trước khi Tòa án Công lý Quốc tế. Dù phương pháp nào được thông qua, điều quan trọng đối với lợi ích toàn cầu của Hoa Kỳ không phải là hòn đảo hay tính chất tự nhiên của những tuyên bố về chủ quyền mà là những hành động khiêu khích.
Mặc dù Trung Quốc có thể “đặt ra vấn đề mà không bắt kịp,” theo lời của các nhà khoa học chính trị Thomas Christensen, điều quan trọng là vị trí siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ cho phép quốc gia này khoảng không để phản ứng thích hợp.
Theo Foreign Affairs, tháng 5-6, 2016
http://www.viet-studies.info/kinhte/USSuperPower_FA.htm