(VNTB) – Để có thể phác họa rõ hơn về hình ảnh “Khi dân cày có casino”, chúng ta cần quay trở lại với hình ảnh “Khi người cày có sân golf”.
Vào năm 2009, khi số lượng sân golf do các địa phương trình lên Chính phủ tăng vọt lên đến 156 dự án, thì một nửa trong số đó đã chiếm hết khoảng 8.000 ha đất nông nghiệp.
Biểu đồ đi lên của sân golf và biểu đồ đi xuống của diện tích đất nông nghiệp là một nghịch lý không thể lý giải hoặc quá dễ phát lộ ở Việt Nam, dù tất cả những người nông dân phải chịu cảnh mất đất để phục vụ cho thói quen ăn chơi của giới thượng lưu, và hơn ai hết là giới chủ đầu tư kinh doanh sân golf và casino đều hiểu ra cái nghịch lý phũ phàng ấy. Song thời gian cứ trôi qua, cùng sự xuất hiện của hết dự án sân golf này đến dự án sân golf khác.
Vào cuối năm 2009, trước làn sóng phản đối mạnh mẽ của dư luận, bao gồm các nhà khoa học và báo chí về những “thói hư tật xấu” của sân golf như gây ảnh hưởng đến môi sinh, môi trường và “ăn” cả đất nông nghiệp, cộng với thực tế chỉ có một tỷ lệ nhỏ nhoi dự án kinh doanh sân golf có lãi, Chính phủ đã phải cắt giảm đến 76 dự án do chính quyền các địa phương trình đề nghị bổ sung cho quy hoạch sân golf đến năm 2020.
Cho tới năm 2011, một hệ quả đã được các nhà khoa học và giới phân tích dự đoán đã xảy đến với 90 dự án sân golf còn lại. Một cuộc kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kết luận có đến 69 dự án (chiếm tỷ lệ khoảng 70% số dự án) nghiêng về kinh doanh bất động sản thay vì mục tiêu ban đầu là kinh doanh sân golf.
Nguồn cơn của trào lưu sân golf đã hiện ra: chủ đầu tư lấy đất nông nghiệp của nông dân, phù phép chuyển quyền sử dụng đất thành đất phục vụ sân golf rồi từ đó biến thành đất xây biệt thự và các hạng mục dịch vụ du lịch. Trong thực tế, có dự án chỉ dành 30% diện tích để làm sân golf, còn 70% là bất động sản và những thứ liên quan đến bất động sản.
Trong khi hiện trạng hoạt động của 90 dự án sân golf vẫn không mấy thay đổi, nếu không muốn nói là ngày càng tệ thêm vì lượng khách chơi golf có khuynh hướng giảm dần và làm cho nhiều chủ đầu tư lỗ nặng, báo chí đã một lần nữa phải phản ảnh khá nhiều về nạn lạm phát sân golf. Những minh họa sống động như một xã ở Lâm Đồng phải “cõng” đến 3 sân golf, trong khi bà con nông dân người dân tộc thiểu số vẫn còn trong diện đói nghèo. Với những người nông dân này, kế sách mưu sinh của họ thật giống như mành chỉ treo chuông một khi phần đất đai ít ỏi của họ bị sân golf “nuốt” mất. Không đất đai, không có nghề nghiệp gì khác, chỉ cầm trong tay một số tiền tượng trưng mà chủ đầu tư bồi thường cho phần đất thu hồi, họ sẽ sinh sống thế nào?
Không giới chức lãnh đạo nào thèm quan tâm đến những mưu sinh “vụn vặt” ấy. Ngược lại, không khác với sự ngụy biện đối với việc xây dựng sân golf, cũng đã xuất hiện những ý kiến tô điểm cho “ích nước lợi nhà” của casino. Với nhiều chính quyền địa phương, casino là một “cứu cánh” cho du lịch bản địa. Và cũng trùng khớp với dự án sân golf, hầu hết các dự án đầu tư casino đều mô tả triển vọng sáng lạn về giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương và nguồn thu nhập sẽ dồi dào hơn hẳn để “xóa đói giảm nghèo”.
Xem ra, những lý do trên có vẻ khá “hợp lý” đối với những trường hợp như Phú Yên – nơi mà từ quá nhiều năm nay đã chẳng làm được một việc gì có kết quả đáng kể để tận dụng tiềm năng du lịch sẵn có của mình, trong khi lại phải cầu cạnh đến nguồn thu nhập từ chuyện đánh bạc.
Phạm Chí Dũng
Golf và casino: Người cày có… cả hai!