Trần Trung Đạo
(VNTB) – Nước Mỹ không tùy thuộc vào quyết định của một hay vài người như các nước độc tài và các chủ thuyết quan trọng cũng không giới hạn trong một hay hai nhiệm kỳ tổng thống.
Trước khi bàn về quan điểm “dân chủ xã hội”, một hình thái kinh tế xã hội được một số người cổ vũ, có lẽ nên nhắc đến Phong trào Cấp Tiến (Progressive Movement) vì đây là lực cần thiết để thúc đẩy quan điểm “dân chủ xã hội” thuần túy lý thuyết thành hiện thực xã hội.
Theo tự điển Oxford, Phong trào Cấp Tiến (Progressive Movement) gồm những người ủng hộ hay biện hộ cho các chính sách cải cách xã hội.
Theo tự điển Cambridge, Phong trào Cấp Tiến là một phong trào xã hội hoặc chính trị nhằm đại diện cho lợi ích của người dân bình thường thông qua thay đổi chính trị và hỗ trợ các hoạt động của chính phủ.
Theo Kevin Hillstrom trong tác phẩm The Progressive Era, Phong trào Cấp Tiến Mỹ từng có một thời rất thịnh. Kỷ nguyên đó kéo dài từ 1896 đến gần Thế Chiến Thứ Nhất.
Nói tới Phong trào Cấp Tiến không thể không nhắc tới Bernie Sanders, Thượng Nghị Sĩ thuộc đảng Dân Chủ, tiểu bang Vermont và là lãnh đạo của phong trào.
Dân Biểu Cấp Tiến trong Hạ Viện Mỹ hiện nay gồm những dân biểu thuộc đảng Dân Chủ có khuynh hướng xã hội tả phái. Tại Thượng Viện, duy nhất Thượng Nghị Sĩ Bernie Sanders đại diện cho Phong trào Cấp Tiến.
Phong trào Cấp Tiến được khá đông giới trẻ ủng hộ. Lý do rất đơn giản, tuổi trẻ thường sống lý tưởng. Họ nhìn đời một màu xanh. Họ hăng say và nhiệt tình cống hiến công sức cho những mục đích “cao thượng giúp đời”. Nếu Karl Marx gọi giai cấp công nhân là những người “không có gì để mất” thì tuổi trẻ trong Phong Trào Cấp Tiến là thành phần “chưa có gì để mất.”
Trong lần ứng cử tổng thống năm 2016, Bernie Sanders tập hợp chung quanh ông ta được một khối người trẻ đông đảo, tự nguyện, có tính tổ chức cao và nhất là được trang bị phương tiện kỹ thuật thông tin nhanh chóng. Khi Bernie Sanders rút khỏi cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc, khối trẻ này chuyển sang ủng hộ các cuộc chạy đua vào quốc hội.
Nhờ đó, trong quốc hội khóa thứ 117, cánh cấp tiến có tới 94 dân biểu và tập trung vào Khối Cấp Tiến (Progressive Caucus). Chủ tịch Khối Cấp Tiến là Dân biểu Pramila Jayapal, đảng Dân Chủ tiểu bang Washington.
Mặc dù hiện nay Phong Trào Cấp Tiến là một cánh của đảng Dân Chủ, lịch sử cho thấy phong trào không nhất thiết thuộc hẳn một đảng nào.
Tổng thống thứ 26 của Mỹ Theodore Roosevelt thuộc đảng Cộng Hòa là lãnh đạo của Phong Trào Cấp Tiến thời đó. Ông là tác giả của ba chính sách mang nội dung cấp tiến gồm kiểm soát chặt chẽ các công ty, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ giới tiêu thụ. Tổng thống Woodrow Wilson, thuộc đảng Dân Chủ sau đó cũng là thành viên của Phong Trào Cấp Tiến.
Cuộc cách mạng kỹ nghệ thế kỷ 19 mang giàu có đến cho một số ít người nhưng được trả một giá rất đắt bằng sự hy sinh của nhiều tầng lớp dân chúng khác. Giới lao động làm việc trong ngành làm đường rầy xe lửa, chế biến, sản xuất phải chịu đựng nhiều thiệt thòi. Họ làm việc trong môi trường khắc nghiệt để làm giàu cho một số nhỏ những chủ công ty, chủ ngân hàng, chủ hầm mỏ.
Phong Trào Cấp Tiến vì thế là phản ứng xã hội tự nhiên của cuộc cách mạng kỹ nghệ.
“Chủ Nghĩa Xã Hội” và “Dân Chủ Xã Hội” tại Mỹ
Chủ nghĩa xã hội có một lịch sử khá dài. Trước khi Marx, Engels xuất hiện với Tuyên Ngôn CS và Tư Bản Luận, các quan điểm về chủ nghĩa xã hội đã có rồi.
Trong thời Karl Marx chủ nghĩa xã hội được phân cực thành nhiều trường phái bắt đầu với Quốc Tế Thứ Nhất tại Geneva 1864.
Là nước của những di dân, Mỹ có hầu hết các trường phái tư tưởng từ khắp nơi trên thế giới trong đó có chủ nghĩa xã hội.
Đảng Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa Mỹ (Socialist Labor Party of America) ra đời năm 1877 và Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Mỹ (Socialist Party of America) được thành lập từ năm 1901. Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Mỹ đã từng có một đảng viên là Victor Berger được bầu vào Quốc Hội Liên Bang năm 1910.
Dù chung một dòng lịch sử trải dài hai thế kỷ, loại “chủ nghĩa xã hội” đang được nhắc hiện nay không liên quan trực tiếp đến “chủ nghĩa xã hội” chuyên chế đã tồn tại tại Liên Xô và Đông Âu từ 1917 đến 1991 cũng như đang tồn tại tại Trung Cộng và Việt Nam.
Tại Mỹ cũng có đảng CS Mỹ thuộc CS Quốc Tế III trước đây. Tàn dư của CS loại này vẫn còn tại Mỹ nhưng không còn được nhắc nhở.
Lý do hai nhóm chữ “chủ nghĩa xã hội” và “dân chủ xã hội” được nhắc nhiều trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ chẳng qua vì một ứng cử viên tổng thống vận động trên nền tảng “dân chủ xã hội Nordic”. Người đó là Thượng Nghị Sĩ Bernie Sanders.
Về đối nội Bernie Sanders ủng hộ quyền của giới lao động, y tế miễn phí, học phí miễn phí. Về đối ngoại, ông chủ trương cắt giảm ngân sách quốc phòng, theo đuổi đường lối ngoại giao hợp tác quốc tế.
Hình thái “dân chủ xã hội Nordic” mà Bernie Sanders muốn nói đến là các quốc gia vùng Nordic gồm Thụy Điển, Denmark, Norway, Phần Lan và Iceland.
Bernie Sanders sai lầm khi nghĩ rằng hình thái kinh tế Nordic có thể áp dụng vào nước Mỹ. Những quốc gia Nordic nhờ đặc tính văn hóa và dân số nên đã thực hiện tương đối thành công một nền kinh tế với hệ thống an sinh xã hội cao, nền giáo dục công lập, hệ thống y tế công cộng. Dân số năm quốc gia vùng Nordic cộng lại chưa bằng tiểu bang Texas của Mỹ.
Quan điểm đối ngoại chủ hòa của Bernie Sanders là một nguy cơ cho nền an ninh và vị trí của Mỹ trên thế giới. Không chỉ đảng Cộng Hòa lo mà cả các thành phần thuộc cánh trung tâm (centrist Democrats) và ôn hòa (Moderate Democrats) của đảng Dân Chủ cũng lo.
Để thắng, các nhà chiến lược đảng Dân Chủ thay đổi nhiều phương pháp vận động. Nếu theo dõi kỹ chúng ta thấy vào giai đoạn cuối những khẩu hiểu có tính xách động và quá khích như “Defund the police” (tái phân phối ngân sách cảnh sát) hay những câu “xã hội chủ nghĩa”, “phong trào cấp tiến” làm cử tri lo lắng đều không còn được ứng cử viên đảng Dân Chủ dùng.
Cơ chế dân chủ Mỹ ngoài hành pháp và lập pháp mà chúng ta nghe hằng ngày còn được bảo vệ bởi một hệ thống tư pháp tiểu bang và liên bang được dựng thành nhiều tầng kiên cố.
Riêng cấp liên bang, Mỹ có 94 tòa án liên bang đặt tại các địa phương (District Court) với tổng cộng 670 thẩm phán. Ngoài ra Mỹ còn có 13 Tòa Phúc Thẩm (U.S. Courts of Appeals), mỗi tòa có ba thẩm phán. Các tòa phúc thẩm không có bồi thẩm đoàn.
Các thẩm phán liên bang do tổng thống đề cử, Ủy Ban Tư Pháp Định Chế (Senate Judiciary Committee) của Thượng Viện nghiên cứu và đề nghị lên Thượng Viện. Thông thường, các tổng thống Cộng Hòa đề cử các thẩm phán chia sẻ quan điểm Cộng Hòa và tương tự đối với các tổng thống Dân Chủ.
Các thẩm phán liên bang Mỹ tại chức suốt đời và chỉ có quốc hội mới có quyền bãi nhiệm nếu thẩm phán nào có hành vi xấu. Tòa cao nhất là Tối Cao Pháp Viện với chín thẩm phán. Theo phúc trình của James C. Duff, Giám Đốc Văn Phòng Điều Hành Tòa Án Mỹ, hiện có 30 ngàn nhân viên chuyên môn phụ giúp cho các thẩm phán tại các tòa.
Nước Mỹ không tùy thuộc vào quyết định của một hay vài người như các nước độc tài và các chủ thuyết quan trọng cũng không giới hạn trong một hay hai nhiệm kỳ tổng thống.
Nếu chiến lược đối ngoại của Mỹ chỉ giới hạn trong bốn năm hay tám năm thì Liên Xô chẳng những không sụp đổ mà đã đánh bại Mỹ trong thập niên 1960 rồi. TT Harry Truman và Tướng Dwight Eisenhower có nhiều điểm bất đồng nhưng khi đắc cử tổng thống TT Eisenhower (Cộng Hòa) vẫn tiếp tục các chính sách đối ngoại của cựu TT Truman (Dân Chủ).
Hai năm nữa, vào ngày 8 tháng 11, 2022, cử tri Mỹ lại sẽ đi bầu.
Lần tới dân Mỹ sẽ bầu 34 Thượng Nghị Sĩ, 435 Dân Biểu và 36 Thống Đốc các tiểu bang. Với tỉ lệ đa số do Dân Chủ đang giữ rất sít sao, 50-50 tại Thượng Viện, 222-211 tại Hạ Viện, với xung đột quan điểm chính trị gay gắt và sự phân hóa xã hội sâu xa hiện nay những cuộc bầu cử năm 2022 và năm 2024 sẽ hứa hẹn nhiều gay gấn.
Theo lịch sử các cuộc bầu phiếu, cử tri Mỹ vốn rất thụ động. Nhưng thái độ đó đang thay đổi. Cuộc bầu cử vừa qua có tới 157 triệu cử tri (66.3%) đi bầu, cao nhất trong lịch sử và tăng hai phần trăm so với cuộc bầu cử năm 2016. Trong tương lai, con số đó chắc chắn sẽ cao hơn.
Nguồn: Facebook Trần Trung Đạo