Vì sao người miền Nam rất nhạy cảm với một số diễn ngôn và cách hành xử từ miền Bắc?
Sự khác biệt vùng miền là chuyện hết sức bình thường, ở nước nào cũng có. Nhưng để cho những sự khác biệt đó trở thành lối ứng xử kỳ thị vùng miền thì là đại họa, bởi nó là ngọn nguồn của bạo lực. Hiểu về những điều khác biệt đó để tìm ra cách ứng xử phù hợp, do vậy, trở nên đặc biệt quan trọng.
Sự khác biệt, và cả kỳ thị, mang tên Bắc Kỳ – Nam Kỳ là một câu chuyện bắt buộc phải có lời giải trong một cộng đồng dân tộc. Trong bài này, tôi xin chia sẻ một số hiểu biết rời rạc của bản thân nhằm giúp những người miền Bắc như tôi hiểu hơn về vài điều nhạy cảm về chính trị của miền Nam. Không có gì là tuyệt đối, tôi không quy chụp mọi thứ cho một vùng miền nào, nhưng có những khác biệt đáng kể mang tính phổ biến.
Tôi không có ý lên án những người miền Bắc thiếu tế nhị trong cách hành xử với người miền Nam, bởi chính tôi cũng chỉ học được những điều dưới đây khi ngấp nghé độ tuổi 30. Và tôi viết những điều này với ý thức rằng sự kỳ thị có thể đến từ cả hai phía. Không có tham vọng giải quyết hết được mọi vấn đề trong một bài viết, tôi mạn phép thảo luận chuyện này từ một góc còn ít được nói đến hiện nay.
1. Người miền Nam nhìn “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” khác người miền Bắc
Người miền Bắc không có cách nào khác để nhìn nhận giai đoạn lịch sử 1954 – 1975 ngoài “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. [1] Họ coi việc đất nước bị chia cắt là không thể chấp nhận, coi Mỹ và chính quyền Sài Gòn là kẻ thù, và coi người dân miền Nam là những nạn nhân cần phải được “giải phóng”.
Nhưng mọi chuyện rất khác khi nhìn từ lăng kính của người miền Nam.
Họ coi một nửa đất nước – miền Nam – là một quốc gia hoàn chỉnh có tên Việt Nam Cộng hòa (từ 1955). Góc nhìn này trùng khớp với góc nhìn của công pháp quốc tế. [2]
Họ trân trọng lá cờ vàng ba sọc đỏ, quốc kỳ của Việt Nam Cộng hòa. Trong khi đó, lá cờ này lại bị xa lánh, kỳ thị ở miền Bắc.
Họ không sống với lý tưởng phải “giải phóng” miền Bắc. Toàn bộ giai đoạn 1954 – 1975 là cuộc đấu tranh gìn giữ miền Nam trước các cuộc “xâm lăng” và “khủng bố” của miền Bắc. Nếu nghe lại các bài nhạc vàng, ta dễ thấy họ gọi quân miền Bắc là “giặc”, “quân thù”. Rất nhiều người miền Nam đã mất mạng ngay trên đất miền Nam dưới nòng súng của miền Bắc, đặc biệt là trong trận Mậu Thân năm 1968. [3]
Họ coi chính quyền Sài Gòn là chính quyền hợp pháp của họ. Họ kính trọng Tổng thống Ngô Đình Diệm [4] của nền Đệ nhất Cộng hòa, [5] họ lập ra Hiến pháp 1967 và bầu ra chính quyền Nguyễn Văn Thiệu của nền Đệ nhị Cộng hòa. [6] Và mặc dù có rất nhiều bất đồng với các quan chức, họ không coi chính quyền đó là kẻ thù.
Họ coi Mỹ là đồng minh, là một đất nước tiến bộ. Thời Việt Nam Cộng hòa, người miền Nam coi việc đi Mỹ du học là một thành tựu lớn trong đời. Họ nhìn lính Mỹ ở miền Nam như những người bảo vệ họ trước miền Bắc, mặc dù có thể họ không hài lòng với việc có quân đội ngoại quốc trên đất Việt Nam.
2. Người miền Nam bị truy bức về chính trị sau năm 1975
3. Người miền Nam bị bần cùng hóa sau năm 1975
4. Người miền Nam phải liều mạng bỏ nước ra đi
Ước tính có hơn một triệu người đã vượt biển bằng thuyền với hy vọng được tàu nước ngoài cứu hoặc đến được với bờ biển của các nước, vùng lãnh thổ láng giềng như Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Hong Kong. Họ trở thành một hiện tượng lịch sử, một thảm họa nhân đạo có tên “Thuyền nhân Việt Nam” (Vietnamese Boat People). Hàng trăm ngàn người trong số họ chết trên biển. Số còn lại đạt được mục đích và sau này đi định cư ở các nước như Mỹ, Canada, Úc và một số nước châu Âu. Một số ít khác đến Ấn Độ, Nhật, tùy thuộc vào việc họ được tàu nước nào cứu. Họ ngày nay trở thành phần lớn của cộng đồng người Việt hải ngoại.
Một số khác thì vượt biên đường bộ sang Campuchia rồi tới Thái Lan. Số này không nhiều bằng thuyền nhân.
Khi ra đi, họ mang tâm thế rằng nếu đi được sẽ liên lạc về gia đình, gửi tiền về nuôi gia đình, và nếu thuận lợi thì sẽ tìm cách đưa gia đình ra nước ngoài. Thực tế là sau khi đã định cư được ở các nước tự do, họ đã làm thủ tục bảo lãnh đưa gia đình sang.
“Tị nạn” là một từ hay bị mang ra để chế giễu ở miền Bắc, nhưng họ không biết rằng với hàng triệu người miền Nam, đi tị nạn từng là lối thoát duy nhất cho cuộc sống của họ.
5. Bi kịch của người miền Nam chưa bao giờ được thừa nhận
Tất cả những bi kịch khổng lồ như vậy của người miền Nam chưa bao giờ được thừa nhận, chứ chưa nói gì đến một lời xin lỗi từ chính quyền.
Họ không được thừa nhận là đã bị truy bức chính trị.
Họ không được thừa nhận là đã bị cướp mất kế sinh nhai.
Họ không được thừa nhận là đã bị phân biệt đối xử nặng nề.
Họ không được thừa nhận là đã bị ép vào đường cùng phải liều mạng bỏ Tổ quốc ra đi.
Không những không được thừa nhận, không được xin lỗi, năm nào người miền Nam cũng phải chịu đựng những lời ngợi ca “chiến thắng 30/4”. Nghĩa trang quân nhân Việt Nam Cộng hòa không có mấy ai chăm sóc, bị hoang hóa đi theo thời gian. Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa bị chính quyền bỏ mặc, phải nương tựa vào nhau và vào sự hỗ trợ của cộng đồng. Trong khi đó, những người miền Nam xưa kia bỏ nước ra đi giờ đây đang gửi mỗi năm hàng chục tỷ đô-la tiền mặt về nước (trong tổng số kiều hối năm 2020 là 17,2 tỷ USD). [13]
Với chừng ấy vết thương mà lịch sử để lại, người miền Nam trở nên đặc biệt nhạy cảm với hàng loạt từ, ngữ, diễn ngôn chính trị cũng như cách hành xử. Người miền Bắc nên biết rằng những vết thương này chưa bao giờ được vá lại và nên chọn lấy cách ứng xử phù hợp nhất trong cả lời nói lẫn hành động.
______________
Tham khảo:
1. Dân, B. N. (2015, April 23). Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Báo Nhân Dân. https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/thang-loi-vi-dai-cua-su-nghiep-chong-my-cuu-nuoc-la-thang-loi-cua-duong-loi-va-nghe-thuat-quan-su-viet-nam-duoi-su-lanh-dao-dung-dan-sang-tao-cua-dang-230737
2. Trung, N. Q. T. (2021b, April 29). 30/4 – Xâm lược hay giải phóng: Từ góc nhìn công pháp quốc tế. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2017/04/30-4-xam-luoc-hay-giai-phong-tu-goc-nhin-cong-phap-quoc-te
3. Britannica, T. Editors of Encyclopaedia (Invalid Date). Tet Offensive. Encyclopedia Britannica. https://www.britannica.com/topic/Tet-Offensive
4. Quản, V. V. (2020, April 22). Cuộc trưng cầu dân ý đưa Ngô Đình Diệm lên chức tổng thống có dân chủ? Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2020/04/cuoc-trung-cau-dan-y-dua-ngo-dinh-diem-len-chuc-tong-thong-co-dan-chu
5. Quản, V. V. (2021c, May 10). 8 điều đáng chú ý về Hiến pháp 1956 của Việt Nam Cộng hòa. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2021/05/8-dieu-dang-chu-y-ve-hien-phap-1956-cua-viet-nam-cong-hoa
6. Quản, V. V. (2021a, March 28). Bầu cử năm 1967 ở miền Nam: Dân chủ nhất trong lịch sử Việt Nam? Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2020/04/bau-cu-nam-1967-o-mien-nam-dan-chu-nhat-trong-lich-su-viet-nam
7. HOANG, T. (2016). From Reeducation Camps to Little Saigons: Historicizing Vietnamese Diasporic Anticommunism. Journal of Vietnamese Studies, 11(2), 43-95. Retrieved July 5, 2021, from https://www.jstor.org/stable/26377909
8. Kiernan, B. (2017). Chapter 11: The Making of Comtemporary Việt Nam, 1975–2016. In Việt Nam – A history from earliest times to the present (pp. 452–455). Oxford University Press.
9. Vi, Q. (2020, March 4). Trại cải tạo sau 30–4-1975: Lục lại một báo cáo của Ân xá Quốc tế năm 1981. Luật Khoa Tạp Chí. https://www.luatkhoa.org/2017/06/trai-cai-tao-sau-30-4-1975-luc-lai-mot-bao-cao-cua-xa-quoc-te-nam-1981
10. Kimura, T. (1986). Vietnam–Ten Years of Economic Struggle. Asian Survey,26(10), 1039-1055. doi:10.2307/2644255
11. ANU E Press Board, Viet Nam: A Transition Tiger? The Introduction of Doi Moi,The Australia National University E Press (2003) 65.internet. 27desember 2015. http://press.anu.edu.au
12. Quan Tue Tran. (2012). Remembering the Boat People Exodus: A Tale of Two Memorials. Journal of Vietnamese Studies, 7(3), 80-121. doi:10.1525/vs.2012.7.3.80
13. Vũ – Đ. (2021, May 17). Hơn 17,2 tỷ USD kiều hối đổ về Việt Nam trong năm 2020. VnEconomy, https://vneconomy.vn/hon-17-2-ty-usd-kieu-hoi-do-ve-viet-nam-trong-nam-2020.htm