Trong số khoảng 8 triệu người Mỹ tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam, gần 400 người đến từ một hòn đảo nhỏ, thuộc địa của Mỹ, có tên Virgin Islands. Phần lớn những người này đều tham chiến gần hoặc trong vùng chiến sự và trở về với những vết sẹo tâm lý đến giờ vẫn chưa lành. Một bộ phim tài liệu dựng lại những ký ức và những trăn trở của nhóm cựu binh này sẽ ra mắt trong dịp kỷ niệm 40 năm cuộc chiến tranh kết thúc.
Ông Harry Daniel, tham gia chiến trường ở Việt Nam trong một năm từ 1967 tới 1968. (Ảnh chụp năm 2013. Photo courtesy of Government House |
Một góc nhìn khác biệt
Harry Daniel, 66 tuổi, tham gia chiến trường ở Việt Nam trong một năm từ 1967 tới 1968. Ông tham gia sứ mệnh tìm và diệt ở Lai Khê. Người cựu binh này kể lại:
“Sứ mệnh của tôi là tìm và diệt ở trong rừng. Tôi chứng kiến rất nhiều người chết, kể cả người Việt lẫn người Mỹ. Nơi tôi tham chiến rất khốc liệt. Vào cuối ngày, sĩ quan chỉ huy điểm tên những người đã bỏ mạng, nghe mà đau đớn.”
Ông Harry Daniel là một trong 20 cựu binh ở Virgin Islands chia sẻ câu chuyện chiến tranh của họ trong bộ phim tài liệu dự kiến dài 60 phút có tên Proudly We Served (tạm dịch là Chúng tôi tự hào đã phục vụ quốc gia trong cuộc chiến). Joan Keenan, một giáo viên đã về hưu ở quần đảo được giao nhiệm vụ làm giám đốc dự án và đạo diễn cho bộ phim này. Bà cho biết:
“Chúng tôi muốn kể lại câu chuyện của những người xuất xứ từ Virgin Islands tham gia cuộc chiến ở Việt Nam. Chúng tôi muốn vẽ lên một bức tranh về những gì họ đã trải qua, những gì họ cảm nhận. Bộ phim này đặc biệt là bởi vì người dân ở đảo Virgin Islands không được phép bầu cử tổng thống Mỹ thế mà họ vẫn phải đi lính. Bộ phim sẽ cho thấy được cái góc nhìn khác biệt của những người lính xuất thân từ khu vực này.”
Bà Keenan cho biết họ không có một danh sách các cựu binh Việt Nam ở Virgin Islands và phần lớn những người họ tìm được để trò chuyện là qua biện pháp truyền khẩu.
Các cuộc phỏng vấn kéo dài từ 30 phút đến một tiếng, bắt đầu bằng việc kể lại việc họ sinh trưởng ở quần đảo này, đến lúc bị gọi đi lính và tham gia chiến tranh. Bà Joan kể lại lúc đó là thời điểm giữa cuộc đấu tranh chống lại phân biệt chủng tộc ở Mỹ lên cao, trong khi đó phần lớn những người tham chiến ở Việt Nam đều được cử đi miền nam để tham gia huấn luyện. Miền Nam nước Mỹ là khu vực ủng hộ nô lệ và cũng là nơi mà tệ nạn phân biệt chủng tộc nặng nề nhất. Bà Keenan nói:
Bức tường tưởng niệm các binh sĩ Mỹ đã tử trận trong chiến tranh Việt Nam ở Washington ngày 29 tháng 3 năm 2013. AFP PHOTO / Nicholas Kamm. |
“Đây cũng là một trải nghiệm đáng nhớ bởi vì họ xuất thân từ một hòn đảo nhỏ và lại là người da đen. Có nhiều người được đưa tới miền nam, tại đây họ không được vào một số nhà hàng để ăn uống, họ không thể làm một số việc nhất định. Đó cũng là những trải nghiệm mới, lần đầu tiên trong đời họ phải chứng kiến bị phân biệt chủng tộc như vậy.
Ông Daniel được huấn luyện ở một căn cứ ở miền nam Alabama, một trong những bang mà nạn phân biệt chủng tộc còn nặng nề khi đó. Người da đen không được học ở trường hay vào nhà hàng của người da trắng. Daniel cho biết:
Luôn cảm thấy bất an
Đa phần các cựu binh của Virgin Islands đều ra mặt trận hoặc ở gần mặt trận. Có những người bị đưa ra chiến trường 30 ngày liên tiếp. Nhiều cựu binh chia sẻ về quãng thời gian ở Việt Nam và phản ứng của họ rất mâu thuẫn, Ông Daniel nói tiếp:
“Một mặt họ yêu mến những người mà họ gặp gỡ. Và vì họ đến từ Virgin Islands nên họ cũng thấy gần gũi vì ở đây có nhiều loại hoa quả ở Việt Nam như ở trong đảo. Tuy nhiên, vì Việt Cộng len lỏi vào trong dân thường nên họ không thể nào tin tưởng hoàn toàn những người Việt Nam. Họ kể rằng có người ban ngày là thợ cắt tóc, bỗng dưng đêm đến lại giao du với Việt Cộng. Họ sống trong cảm giác nghi ngờ và căng thẳng nên họ luôn cảm thấy bất an.”
Một cựu binh tên Emil James kể lại thời điểm khi bom đạn của Việt Cộng rơi ngay sau lưng nơi một người đồng đội của ông ngồi, ngay bên cạnh ông. James kể trong cuộc phỏng vấn với đoàn sản xuất:
“Chúng tôi đang ngồi trên đụn cát. Tôi vẫn còn nhớ khi đó tôi quay sang anh ấy và hỏi liệu Việt Cộng có giúp chúng ta ăn mừng quốc khánh ngày 4/7 hay không. Thế rồi ngay sau khi tôi dứt lời đạn pháo nổ tung phía sau lưng anh ấy. Sức công phá của nó thổi tung anh ta về phía tôi và cả hai chúng tôi rơi xuống hố. Anh ấy sống sót nhưng là phần lưng thì… Anh ấy vẫn còn sống.”
Ra chiến trường thì là vậy, bà Joan Keenan cho biết khi trở về, những người này không hề được tiếp đón nồng hậu. Cựu binh Daniel kể lại:
“Khi đó ở Mỹ là lúc đỉnh điểm của các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh. Chúng tôi bị gọi là những kẻ giết trẻ em. Chúng tôi bị họ nhổ nước bọt vào người, bị đuổi đánh. Chúng tôi không được chào đón như những người hùng đâu. Vì thế, nhiều cựu binh Việt Nam giờ đây thành người không nhà cửa, bị xã hội xa lánh. Họ trở thành nạn nhân của chiến tranh.”
Phần lớn những cựu binh chiến tranh Việt Nam đang ở độ tuổi ngoài 60. Họ trở về nước với bệnh rối loạn tâm lý sau sang chấn PTSD. Một số người tham gia trong dự án về bộ phim tư liệu này vẫn còn phải điều trị chứng bệnh này. Những người trực tiếp tham chiến vẫn còn nặng nề những suy nghĩ về cuộc chiến. Bà Keenan kể:
“Một số người phải uống thuốc mới ngủ được, họ gặp ác mộng. Có vài người thậm chí còn nói với chúng tôi rằng sau cuộc phỏng vấn này có lẽ họ không còn sức trò chuyện gì được trong vài tuần vì dư âm quá nặng nề. Nhiều người mới chỉ bắt đầu tìm kiếm điều trị cho căn bệnh của họ.”
Một số cựu binh đã quay trở lại Việt Nam kể từ sau cuộc chiến để thăm lại mảnh đất này, tuy nhiên những người chưa trở lại vẫn đau đáu một nỗi ám ảnh. Cựu binh có tên là Rolando Roebuck cho biết ông đã quay lại Việt Nam vài lần kể từ khi cuộc chiến kết thúc. Ông cho rằng việc quay lại sẽ khiến quá trình hàn gắn sau chiến tranh của các cựu binh diễn ra nhanh hơn.