Việt Nam Thời Báo

Nhóm Đối thoại giáo dục đưa ra khuyến nghị về đại học Việt Nam

Bản kiến nghị khoảng 8.000 từ của nhóm Đối thoại giáo dục Việt Nam (VED) do GS Ngô Bảo Châu chủ trì vừa được gửi tới lãnh đạo giáo dục.
Bản kiến nghị gồm 5 nhóm vấn đề chính, là kết quả nghiên cứu về phương hướng cải cách đại học của nhóm, được thực hiện trong 3 năm. Quan điểm của nhóm Đối thoại giáo dục (VED) là “hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần được cải cách cơ bản và sâu sắc ngay từ nguyên lý và quy tắc tổ chức”, và “cải cách cơ bản và sâu sắc là một quá trình lâu dài và liên tục, không phải là một đơn thuốc có tính công phạt”.
Địa phương quản trường, Bộ điều tiết tầm quốc gia
Vấn đề đầu tiên mà nhóm đưa ra là cải cách mô hình quản trị đại học, để nền đại học Việt Nam có sức sống và sức phát triển.
Ngô Bảo Châu, đối thoại, giáo dục, VED, đại học, tự chủ
Thủ tướng tiếp GS Ngô Bảo Châu và nhóm Đối thoại Giáo dục
Theo nhận định của VED, ở một nghĩa nào đó, hơn 330 trường đại học và cao đẳng công lập ở Việt nam chưa có “chủ” thực sự. Hiện tại, một số đại học Việt Nam đã có hội đồng trường, nhưng số lượng ít và những hội đồng đang tồn tại chủ yếu chỉ có chức năng tham vấn.
Nhóm này cho rằng thay cho các hội đồng trường thì các trường đại học cần có hội đồng uỷ thác với quyền lực tương tự như hội đồng quản trị của các doanh nghiệp.
Việc thành lập hội đồng uỷ thác và thiết lập cơ cấu của nó gắn liền với việc nhà nước phân quyền làm “chủ” đại học cho địa phương và các bộ, ngành liên quan.
“Chúng tôi tin rằng chỉ những định chế có lợi ích gắn chặt với định mệnh của một trường đại học mới thực hiện tốt vai trò làm “chủ”” – VED khẳng định, và phân tích việc phân quyền làm “chủ” đại học cho địa phương có các thuận lợi như tăng thêm tính lành mạnh trong cạnh tranh giữa các tỉnh thành phố, cũng như gia tăng tính thận trọng trong cân nhắc nhu cầu thực, tính khả thi của việc xây dựng đại học của địa phương mình.
Địa phương là nơi có khả năng tốt nhất để vận động được sự ủng hộ xã hội lớn nhất cho trường.
Lộ trình giao đại học về địa phương có thể bắt đầu từ các tỉnh thành phố có khả năng tự chủ ngân sách.
Với việc cải cách quản trị đại học như ở trên, vai trò của các Bộ chủ quản sẽ được tập trung vào trách nhiệm điều phối, điều tiết ở tầm quốc gia.
Tăng tự chủ tài chính
Ba vấn đề lớn về tài chính mà hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đang đối mặt, theo VED, là thiếu kinh phí, bất bình đẳng và thiếu tự chủ tài chính.
Cụ thể, VED cho rằng ba thách thức tài chính lớn trong giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là: Các trường đại học thiếu kinh phí một cách trầm trọng; Mức học phí cho các trường công cũng rất thấp; Và các nguồn thu khác như nguồn thu từ dịch vụ, nguồn thu từ dịch vụ khoa học, công nghệ, từ viện trợ, tài trợ, hiến tặng cũng quá thấp.
Điều này dẫn đến hệ quả là chất lượng đào tạo suy giảm, cơ sở vật chất không đáp ứng yêu cầu và xuống cấp, bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận giáo dục đại học giữa người giàu và người nghèo…
Từ phân tích ba vấn đề nói trên, theo VED, cải cách tài chính cho hệ thống các trường đại học Việt Nam cần tập trung vào ba lĩnh vực ưu tiên sau: Tăng đầu tư toàn xã hội vào hệ thống đại học, bao gồm cả tài trợ từ ngân sách lẫn đóng góp của xã hội; Tự chủ tài chính cho các đại học; Thay đổi cách phân bổ ngân sách cho từng trường và chia thành ba kênh (Hỗ trợ trực tiếp cho từng trường; Hỗ trợ thông qua học bổng và tín dụng sinh viên; Hỗ trợ thông qua tài trợ nghiên cứu khoa học).
Nhóm cũng lưu ý rằng tăng tự chủ không có nghĩa là Nhà nước giảm hỗ trợ cho giáo dục đại học, mà tăng tự chủ là một phương thức giúp nhà nước phân bổ ngân sách hỗ trợ cho đại học một cách hiệu quả hơn thay vì cào bằng, hay theo những chỉ tiêu có thể bàn cãi.
Mô hình dài hạn mà VED đề xuất như sau: Các trường được toàn quyền quyết định các vấn đề như số lượng tuyển sinh, mức học phí, chương trình và chất lượng đào tạo, chi tiêu từ lương đến các khoản chi và đầu tư khác ở mức thị trường, tiền hỗ trợ từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ.
Bên cạnh đó, có cơ chế giám sát nội bộ và từ bên ngoài, có cơ chế cung cấp thông tin cho người dân lựa chọn trường, quy định từng trường phải trích một phần nhất định từ doanh thu làm học bổng.
Theo lộ trình mà VED đưa ra, trong thời gian đầu, Chính phủ có thể vẫn khống chế mức học phí trần (ví dụ mỗi năm học phí được tăng tối đa 25%), đồng thời cho phép mức trần này tăng dần theo từng năm…
Tổ chức các trung tâm kiểm định độc lập
Theo quan điểm của VED, để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, trong điều kiện nguồn lực hữu hạn, Nhà nước nên tập trung vào hai công cụ kiểm định chất lượng và công khai thông tin chất lượng hơn vì tính khả thi, và tính phổ dụng cao hơn.
Ngô Bảo Châu, đối thoại, giáo dục, VED, đại học, tự chủ
Ông Đỗ Quốc Anh (Học viện Nghiên cứu Chính trị Sciences Po, Paris, Pháp) tại sự kiện “Đối thoại giáo dục” diễn ra cuối tháng 7/2014 tại TP.HCM, với sự tham gia của Bộ trưởng Bộ Khoa học – Công nghệ Nguyễn Quân. Ảnh: Lê Huyền
Về kiểm định chất lượng, cần áp dụng nhiều bộ tiêu chí kiểm định chất lượng khác nhau cho các bậc học khác nhau và cho các hình thức học khác nhau.
Tổ chức lại các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục thành các trung tâm kiểm định độc lập, nằm ngoài Bộ GD-ĐT. Khuyến khích sự hiện diện của các tổ chức kiểm định quốc tế ở Việt Nam.
Việc công khai thông tin chất lượng giao cho một tổ chức độc lập. Bộ thông tin chỉ số có thể bao gồm: mức độ hài lòng của sinh viên sau tốt nghiệp, tỷ lệ sinh viên có việc làm 12 tháng sau tốt nghiệp, thu nhập trung bình của sinh viên sau tốt nghiệp …
Khuyến khích và có chính sách hỗ trợ các trường đại học Việt Nam tham gia vào các bảng xếp hạng và đối sánh quốc tế.
Về dài hạn, kiểm định chất lượng và công khai thông tin chất lượng cần được xem là hoạt động bắt buộc và định kỳ đối với tất cả các trường, chương trình đại học và cao đẳng trong cả nước.
Giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp
VED cho rằng vấn đề nổi cộm nhất trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở đại học Việt Nam là sự ưu tiên dành cho số lượng thay cho chất lượng.
VED khuyến nghị về giảng dạy cần giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp; Tăng số giờ thực tập, thực hành, làm đề tài và làm bài tập.
Về nghiên cứu khoa học, lấy trình độ nghiên cứu khoa học làm ưu tiên hàng đầu cho việc tuyển chọn giảng viên. Thiết lập một số vị trí với điều kiện làm việc và đãi ngộ đặc biệt để tạo ra những đầu tầu trong nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng.
Sự hỗ trợ của Nhà nước tập trung về các quỹ hoạt động theo mô hình Nafosted. Lấy thành tích khoa học và mức độ công nhận quốc tế làm chỉ tiêu hàng đầu trong việc xét duyệt đề tài.
Cần thể chế hoá sự liên kết giữa đại học và công nghiệp.
Thế nhưng, VED cũng cho rằng sẽ rất khó có thể cải tổ về cơ bản chế độ tuyển dụng nhân lực khoa học, đặc biệt trong việc thiết lập các vị trí giáo sư đặc biệt, nếu không có cải tổ về quản trị và tài chính đại học.
Thiết lập các nghị trường trong đại học
Uy tín của các trường đại học trong xã hội không chỉ phụ thuộc vào tiềm năng tài chính và chất lượng nghiên cứu khoa học và giảng dạy mà còn phụ thuộc vào các định chế dân chủ nội bộ, cũng như khả năng duy trì đạo đức và tự do trong học thuật.
Tuy nhiên, theo như phân tích của VED, các định chế dân chủ nội bộ trong các trường đại học Việt Nam còn thiếu hoặc nếu có thì còn khá sơ sài.
Khuyến nghị về vấn đề này, VED cho rằng phải thiết lập nghị trường giảng viên với vai trò tham vấn mọi vấn đề liên quan đến giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong trường. Thiết lập nghị trường sinh viên với vai trò tham vấn mọi vấn đề liên quan đến học tập và đời sống sinh viên. Thiết lập các ủy ban thông qua đó giảng viên có thể tham vấn trực tiếp cho Ban giám hiệu.
Các trường đại học được tự chủ trong việc thiết lập ưu tiên trong nghiên cứu khoa học và học trình giảng dạy.
Xem toàn văn bản khuyến nghị TẠI ĐÂY hoặc TẠI ĐÂY 
Nhóm Đối thoại giáo dục tập hợp một số nhà khoa học có chuyên môn ở những lĩnh vực khác nhau.
Trần Ngọc Anh (Đại học Indiana, Hoa Kỳ)
Đỗ Quốc Anh (Học viện Nghiên cứu Chính trị Sciences Po, Paris, Pháp)
Vũ Thành Tự Anh (Đại học Princeton, Hoa Kỳ và Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Việt Nam)
Ngô Bảo Châu (Đại học Chicago, Hoa Kỳ và Viện nghiên cứu cao cấp về toán, Việt Nam)
Lê Hồng Giang (Sydney, Australia)
Phạm Hùng Hiệp (Đại học Văn Hoá Trung Hoa, Đài Loan)
Ngô Quang Hưng (Đại học bang New York ở Buffalo, Hoa Kỳ)
Phạm Ngọc Thắng (Hà Nội)
Phạm Hữu Tiệp (Đại học Arizona, Hoa Kỳ)
Trịnh Hữu Tuệ (Đại học Wisconsin tại Milwaukee, Hoa Kỳ)
Vũ Hà Văn (Đại học Yale, Hoa Kỳ)
Nguyễn Phương Văn (TP. HCM).

  • Ngân Anh (lược thuật)
  • Vietnamnet

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Việt Nam Thời Báo