Ông Phan Trung Lý – quan chức trọn đời ăn thuế cử tri
Nhưng điều khiến cho dư luận xã hội đang lặng đắng bỗng ồn ào lại là phát ngôn ấn tượng của ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm UBPL của QH tại cuộc họp bàn về tái cơ cấu: Tôi thấy ở Hàn Quốc người ta coi nợ xấu là của toàn xã hội, nên kêu gọi người dân đóng góp tiền, vàng để giải quyết nợ xấu. Chúng ta có học tập được không?
—————————
Còn người dân Việt giờ đây bỗng như “có duyên” với cổ tích Ba tư Nghìn lẻ một đêm, lẩm nhẩm câu thần chú hàm chứa niềm khao khát của họ, trước cái bẫy thu nhập trung bình khắc nghiệt đã giăng ra: Các loại cải cách ơi, hãy mở cửa!
I-Trong tuần, nổi lên câu chuyện nợ xấu. Cái khái niệm không mấy đẹp báo hiệu một điềm chả lành gì, với một cá nhân đã đành, mà đây lại còn là nợ xấu của một quốc gia.
Nợ xấu, theo định nghĩa của Bách khoa toàn thư Tiếng Việt, là các khoản tiền ngân hàng cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản.
Con số đó không hề nhỏ. Mới đây, tại phiên chất vấn của UBTVQH ngày 29/9, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình thừa nhận nợ xấu lên đến 500.000 tỷ đồng. Còn tại cuộc họp báo Chính phủ chiều 28/8, trả lời báo giới, Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, tính đến cuối tháng 6/2014, nợ xấu ở mức 4,17%, cao hơn mức 4,07% vào cuối tháng 5/2014 và mức 3,61% cuối năm 2013.
Như vậy, nợ xấu đang tiếp tục… a la xô.
Một trong hai nguyên nhân được bà Hồng lý giải, đó chính là hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN vẫn tiếp tục khó khăn. Đến hẹn, nợ xấu… lại lên.
Nhưng điều khiến cho dư luận xã hội đang lặng đắng bỗng ồn ào lại là phát ngôn ấn tượng của ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm UBPL của QH tại cuộc họp bàn về tái cơ cấu: Tôi thấy ở Hàn Quốc người ta coi nợ xấu là của toàn xã hội, nên kêu gọi người dân đóng góp tiền, vàng để giải quyết nợ xấu. Chúng ta có học tập được không?
Cái vế đầu tiên ông Phan Trung Lý đưa ra đã cực kỳ vô lý. Nợ xấu ở đây, là do làm ăn thất bát của các DN. Mà biết đâu ở đó, có cả tiền tham nhũng, tiền thất thoát lãng phí của các lợi ích nhóm? Sao lại là của cả xã hội, nói như dân gian: DN ăn ốc, dân … đổ vỏ?
Cái vế thứ hai cũng cực kỳ… vô lý nốt, có phần “chạm” đến nỗi đau của người dân Việt.
Quá khứ của một thời luôn sống cho đất nước hẳn chưa bao giờ phai nhòa trong lòng họ. Tuần lễ Vàng, với gần 400 kilo vàng người dân hiến tặng nhà nước VNCHDC non trẻ. Rồi những phong trào “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” trong cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước. Hẳn lòng người dân không “tiếc” gì cho dân tộc, cho đất nước.
Nhưng sẽ rất tiếc, nếu những câu hỏi của họ hôm nay đặt ra cho xã hội, và các vị có trách nhiệm không được trả lời thấu đáo: Vì sao công cuộc phòng chống quốc nạn tham nhũng không có kết quả? Vì sao cơ chế công khai minh bạch trong quản lý xã hội vẫn còn là của… quý và hiếm? Vì sao nạn chạy chức chạy quyền, mua quan bán tước vẫn là điều ám ảnh với người dân? Vì sao và vì sao….?
Mặt khác phải thấy, nước Việt đang đối mặt với nguy cơ chưa thoát được “bẫy thu nhập trung bình” và thuộc nhóm các quốc gia châu Á phải mất nhiều thời gian nhất để cải thiện tình trạng này.
Trong khi đó, với các loại phí, người dân Việt phải … gánh rất khỏe.
Trả lời báo Thanh niên, ngày 8/10/2013, Ts Ngô Trí Long (Bộ Tài chính) cho biết, hiện nay có tới 432 khoản phí và lệ phí được thu trên cả nước, trong số này có 393 khoản thuộc thẩm quyền quyết định của TƯ, còn lại phân cấp cho địa phương.
Riêng người nông dân gánh 131 khoản đóng góp, trong đó có 93 loại phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước và 38 khoản đóng góp xã hội khác. Thậm chí, nhiều làng quê, có nhiều khoản chính quyền địa phương kêu gọi đóng góp tự nguyện, nhưng nó na ná … bắt buộc. Cũng theo Ts Long, VN nằm trong số những nước có mức thu thuế và phí rất cao so với khu vực. Trung bình 05 năm qua, tỷ lệ thu thuế, phí tính trên GDP (không kể dầu thô) của VN là hơn 20%, trong khi Trung Quốc 17,3%, Thái Lan 15,5%, Philippines 13%, Indonesia 12,1%…
Bỗng thấy ngẩn ngơ và khâm phục… đôi vai người dân Việt. Mà thật khó tâm phục, khẩu phục phát ngôn của ông Phan Trung Lý. Nói như nhà báo Đào Tuấn trên báo Lao động “nợ xấu, tệ hại thay, lại không phải là Tổ quốc thiêng liêng”
Ông Lý sẽ chỉ có lý nếu ông nói, hãy học Hàn Quốc, các nước văn minh, về cách quản trị quốc gia công khai, minh bạch. Để người dân được biết đồng tiền lao động mồ hôi của họ có hiệu quả và xứng đáng thế nào với trình độ quản lý của Nhà nước.
Được biết mới đây, bất ngờ nhất, đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội kiến nghị “xem xét dành một phần chi ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu của các DNNN”. Điều này rất khác với quan điểm trước đây Chính phủ trả lời trực tiếp trên nghị trường hay qua các văn bản. Đó là “Nhà nước không sử dụng ngân sách để trả nợ thay cho ngân hàng, cho doanh nghiệp” (theo VnEconomy, ngày 06/10).
Bởi tháng 06/2013, hơn một năm trước, VAMC (Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng VN) được thành lập theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng NNVN với vốn điều lệ 500 tỷ đồng, có nhiệm vụ góp phần xử lý nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý nền kinh tế.
Đây không phải điều gì mới mẻ. Nó là mô hình khá phổ biến của nhiều nước khu vực châu Á như Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan…. và ở các quốc gia này, hoạt động của mô hình khá hiệu quả.
Trong khi đó ở nước Việt, chả biết VAMC làm ăn giỏi giang ra sao? Chỉ biết, nếu việc lấy ngân sách Nhà nước trả nợ cho nợ xấu của DNNN thành hiện thực, thì thực chất đã rất mâu thuẫn với chủ trương thành lập VAMC. Bởi trong phát biểu của Thống đốc Nguyễn Văn Bình tại phiên chất vấn ngày 29/9, ông cho biết, có nước sử dụng đến 60% GDP, hay ít nhất cũng 7-8% ngân sách để xử lý nợ xấu, còn VN không dùng chút ngân sách nào để xử lý nợ xấu. Đây là điểm khác biệt cơ bản.
Sự khác biệt cơ bản này khác biệt được bao lâu?
Trên tờ DNSG, ngày 22/9, dưới đầu đề “VAMC: Nhiều lúc có như không”, bài báo cho biết dù mua vào ồ ạt một lượng nợ xấu rất lớn nhưng đến thời điểm này, VAMC mới chỉ là nơi quản lý nợ “tạm” được chuyển từ các ngân hàng qua. Trong khi, điều quan trọng trong xử lý nợ xấu là làm thế nào để VAMC bán được nợ xấu.
Ngược lại, cựu Bộ trưởng Trương Đình Tuyển, tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu 2014 cho rằng “sáng kiến” này rất khó giải quyết được nợ xấu khi VAMC thiếu cả quyền lực tài chính và quyền lực pháp lý. Một đại biểu khác bình luận: Cách xử lý nợ xấu hiện nay còn xấu hơn cả nợ xấu. Còn theo các chuyên gia tài chính, đề xuất chạy theo “tiền tươi thóc thật” hay tăng quyền cho VAMC lúc này, đều rất dễ gặp rủi ro.
Vậy một câu hỏi cần đặt ra, chủ trương thành lâp VAMC là đúng hay không, cần thiết hay không cần thiết? Cho dù VAMC hay ngân sách Nhà nước, thì đó thực chất đều là tiền thuế của người dân.
Trong khi nợ xấu thì cứ nằm chình ình như mắc căn bệnh… béo phì
******************
II- Cứ tưởng câu chuyện giấy phép con đã một đi không trở lại, không ngờ, “nó” chưa hề đi, mà vẫn gan lì bám trụ tại các DN để “hai cùng”: Cùng ở, nhưng quan trọng nhất là cùng… ăn
Chả biết anh nào “ký sinh” anh nào nữa.
Phải nói thẳng điều này không úp mở. Bởi muốn hiểu về giấy phép con, chỉ cần đọc lại thông tin từ cuộc tọa đàm về quyền tự do kinh doanh của CLB Pháp chế DN (Bộ Tư pháp) ngày 20/8. Chính ở cuộc tọa đàm này, cái sự khốn khổ của các DN như vỡ ra, khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố:
Hiện có 386 ngành, nghề kinh doanh đòi hỏi phải có điều kiện đi kèm. Trong đó có 895 điều kiện kinh doanh “cấp 1” (giấy phép “cha”), 2.129 điều kiện “cấp 2” (giấy phép “con”) và 1.745 điều kiện “cấp 3” (giấy phép “cháu”).
Các quy định này thuộc phạm vi quản lý của 16 bộ, ngành và rất rắc rối. Có những ngành, điều kiện kinh doanh chung thì nằm ở luật, nghị định, nhưng điều kiện “con, cháu, chắt” thì nằm ở thông tư, quyết định, thậm chí công văn của các Bộ (VietNamNet, ngày 21/8).
Thành thử, cứ “chiểu” theo thông tin của Bộ KH và ĐT, sẽ thấy, có một thực tế oái oăm cho nhiều DN. Có giấy đăng ký kinh doanh, có giấy phép cha, vẫn chưa chắc đã được kinh doanh, nếu không có đủ giấy phép con, thậm chí giấy phép cháu, quy định điều kiện kinh doanh (ĐKKD). Hóa ra, “con”, “cháu” ở đây lại hơn cả “cha”. Nhưng chả phải là xã hội… có phúc.
Có phúc làm sao, khi chỉ vì quyền sinh, quyền sát ở các Bộ, mà chả DN nào có thể suôn sẻ làm ăn, dù quyền kinh doanh đã được pháp luật quy định rõ. Và nói cho cùng, với cung cách quản lý như vậy, thực chất là vi phạm quyền tự do kinh doanh mà Hiến pháp đã công nhận.
Hai tháng sau, mới đây, ngày 6/10, tại cuộc tọa đàm “Kết quả sơ bộ rà soát các ngành nghề cấm kinh doanh và kinh doanh có điều kiện”, do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tổ chức, cho thấy, qua rà soát 398 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, thì có 895 ĐKKD cấp 01 (giấy phép cha), 2.129 ĐKKD cấp 02 (giấy phép con) và 1.745 ĐKKD cấp 03 (giấy phép cháu).
Có nghĩa là … nguyễn y vân.
Đáng chú ý nhất, trước đó, ngày 19/8, tại cuộc họp với các bộ, ngành về chủ đề này, người đứng đầu Chính phủ đã chỉ đạo rõ ràng: Theo tinh thần của Hiến pháp và quy định về quyền tự do kinh doanh, người dân được quyền tự do thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Do đó, việc hạn chế quyền của công dân phải được quy định cụ thể trong luật…Quản lý nhà nước là để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, làm ăn. (VnEconomy, 20/8)
Đáng chú ý nữa, cuộc rà soát cho thấy hai Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn “đi đầu” trong việc ban hành giấy phép con. Bộ Công thương với 68 ĐKKD; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với 58 ĐKKD. Theo cách nói của người đứng đầu CP, thì với chức năng quản lý Nhà nước, đây cũng là hai bộ … đứng cuối việc thực hiện tạo thuậnlợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, làm ăn. Với 04 và 07 ĐKKD, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tư pháp là hai bộ ít đặt ĐKKD nhất.
Tại cuộc tọa đàm, ông Lê Duy Bình (chuyên gia rà soát độc lập của Công ty Cổ phần Tư vấn Quản lý Kinh tế Economica VN) cho biết: Các loại giấy phép này được ban hành rất đa dạng, phong phú. Rất nhiều ĐKKD khắt khe được đặt ra đối với việc gia nhập thị trường của DN. Thậm chí chỉ một thông tư đã làm thui chột hàng ngàn ý định kinh doanh.
Rõ ràng, việc chấm dứt hiện tượng các Bộ tùy tiện ra các loại giấy phép về ĐKKD một cách vô tội vạ với các DN, không chỉ là thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao động, mà còn là góp phần ngăn ngừa những tiêu cực của lợi ích nhóm, tham nhũng, ăn tiền phi pháp, nhân danh “quản lý Nhà nước”.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc chấn chỉnh từ cấp phép cho tới bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh nghiêm chỉnh theo quy định pháp luật này cũng không đơn giản, ở cả hai phía quản lý Nhà nước và DN. Xuất phát từ lợi ích riêng của cả hai phía. Việc hạn chế “loạn giấy phép về ĐKKD” thực chất còn liên quan rất chặt chẽ đến cả cải cách thủ tục hành chính, cung cách tổ chức bộ máy, và chính chất lượng quản lý DN.
Theo các nhà quản lý kinh tế như TS Nguyễn Đình Cung (Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế TƯ), ông Đặng Huy Đông (Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thì trên thế giới người ta áp dụng hai phương thức rà soát.
Hoặc có một cơ quan độc lập riêng biệt, có thẩm quyền hỏi và đề nghị các bộ giải trình về những ĐKKD mà họ đặt ra, để báo cáo lên CP. Hoặc có tổ đặc nhiệm thực hiện rà soát. Hoạt động này trong thực tiễn còn tạo ra một hệ thống tư duy mới về chính sách, có khi tác động thay đổi cả quyết định pháp luật về kinh doanh. Nhưng điều quan trọng nữa, là ngành nghề kinh doanh và ĐKKD của ngành nghề đó phải ban hành cùng một văn bản. Đây cũng chính là một giải pháp, một cải cách thủ tục hành chính, làm đơn giản các ĐKKD, hạn chế tiêu cực của cơ quan quản lý nhà nước.
Mặt khác, nhiều cơ quan quản lý cũng chỉ quá chú trọng vào việc ra giấy phép ĐKKD nhưng rất lỏng lẻo, thậm chí thả nổi vấn đề hậu kiểm- chất lượng dịch vụ kinh doanh, sản xuất. Đây cũng chính là kẽ hở của quản lý mà rút cục khách hàng- các thượng đế… gánh đủ.
Một nền kinh tế, DNNN thì hưởng lợi đủ thứ, góp phần vào cục nợ xấu khủng, trong khi DN vừa và nhỏ thì bị bẻ hành bẻ tỏi, chứa đựng đủ thứ nhũng nhiễu, tiêu cực, tác động tiêu cực, khiến cho kinh tế nước Việt giờ đây giống như bức tranh thuộc trường phái … trừu tượng, rất khó hiểu và đương nhiên, rất khó phát triển.
Còn người dân Việt giờ đây bỗng như “có duyên” với cổ tích Ba tư Nghìn lẻ một đêm, lẩm nhẩm câu thần chú hàm chứa niềm khao khát của họ, trước cái bẫy thu nhập trung bình khắc nghiệt đã giăng ra: Các loại cải cách ơi, hãy mở cửa!
Kỳ Duyên
Tuần Việt Nam