Phạm Viết Đào ghi
28/4/1984- Cao điểm 1509 thất thủ, bùng nổ cuộc chiến Vị Xuyên
Ngày 28/4/1984, cách đây gần 40 năm, sau gần một tháng trời dùng pháo binh bắn phá ác liệt, bừa bãi trên toàn tuyến biên giới, trọng điểm là khu vực Thanh Thủy, Vị Xuyên; 5 giờ sáng ngày 28/4/1984, Trung Quốc đã huy động có nguồn tin cho hay 4 tiểu đoàn tấn công ồ ạt lên cao điểm 1509 nằm tại khu vực ngã ba Thanh Thủy. Cao điểm này do Đại đội 22, E 122, F 313 chốt giữ. Sự thất thủ của cao điểm 1509 chiều 28/4 đã mở đầu cho một cuộc chiến tàn khốc, đẫm máu tại Vị Xuyên, cuộc chiến kéo dài tới đầu nhưng năm 90 gây tổn thất cho cả đôi bên.
Trung Quốc đã tấn công như thế nào, cao điểm 1509 đã rơi vào tay quân Trung Quốc trong hoàn cảnh nào, Phạm Viết Đào đã gặp gỡ rất nhiều nhân chứng, những CCB từng tham gia chiến đấu, bảo vệ cao điểm 1509, đề nghị họ kể lại và sẽ lầm lượt đưa lên các ý kiến đó…
Sự thất thủ cao điểm 1509 cuối ngày 28/4/1984 chắc chắn rồi mai sau lịch sử sẽ phải ghi lại sự kiện quan trọng này. Sự thất thủ này không đơn thuần mang ý nghĩa lịch sử quân sự của một quân đội từng đánh thắng nhiều đội quân xâm lược nhà nghề; Sự kiện lịch sử này sẽ còn mang ý nghĩa về quan hệ chính trị, quan hệ thế sự giữa hai nước Viêt-Trung, hai nước dưới quyền lãnh đạo của hai đảng chính trị có chung tôn chỉ, cương lĩnh hành động.
Trong chuyến thăm Việt Nam gần đây, ông Tập Cận Bình tiếp tục khẳng định lại với các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Quan hệ hai nước Việt-Trung lợi ích chung lớn hơn bất đồng” bởi Trung Quốc tiếp tục trung thành với “Phương châm 16 chữ” (tiếng Trung: 十六字方针) (thập lục tự phương châm) “Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan” nghĩa là sông núi gắn liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập văn hoá, có chung định mệnh…
Cuộc tấn công ngày 28/4/1984 cưỡng chiếm cao điểm 1509 của quân đội Trung Quốc mở màn cho một cuộc chiến tranh lớn, đẫm máu nổ ra tại khu vực châu Á. Cuộc chiến tranh này kéo dài cho tới đầu những năm 90. Tại “Nghĩa trang quốc gia Vị Xuyên”, nhiều bia mộ vẫn còn ghi tên các liệt sĩ đã ngã xuống tại chiến trường Vị Xuyên vào những năm 1990-1991.
Khói lửa của cuộc chiến Vị Xuyên cũng đã trui rèn lên những tấm gương anh hùng, quả cảm; chính chiến trường Vị Xuyên hình thành ý chí sắt đá của những người lính anh hùng, trung thành với Tổ quốc. Chính họ đã để lại cho muôn đời sau những lời thề quyết tử bảo vệ biên cương Tổ Quốc tới giọt máu cuối cùng: “Sống bám đá, Chết hóa đá bất tử bảo vệ Tổ quốc…”( Lời khắc trên báng súng của anh hùng Nguyễn Viết Ninh-F 356) hay lời tuyên thệ “Giặc Tàu phải đánh, không thắng không về” ( Tuyên thệ trước khi xuất trận của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Xuân Thuyên, Tiểu đoàn trưởng D 8- E 149- F 356 trước khi vào trận đánh cảm tử cao điểm 300-400 tháng 1/1985)…Hành động anh hùng của Lê Trần Mãn, biết là sẽ hy sinh nhưng vẫn leo lên đạp đổ bằng được lá cờ của Trung Quốc cắm trên chốt 685, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc…
Khói lửa chiến tranh Vị Xuyên đã làm cho nhiều cánh rừng hoa mộc miên, (hoa gạo) một đặc sản của đất trời Hà Giang bởi vẻ đẹp của sắc màu tươi đỏ của máu được trồng từ thời Pháp, sừng sừng dọc theo quốc lộ 2, dọc theo các sườn núi cheo leo, nhiều thân gốc to 5-6 người ôm đã phải đốn đi để lấy gỗ làm quan tài chôn lính…
1509 Thất thủ chiều 28/4/1984 như thế nào?
( Ghi theo lời kể của CCB F 313 Đường Minh Tuấn)
Cuối tháng 7/2012 vừa qua, Đường Minh Tuấn, quê ở Hương Canh- Vĩnh Phúc, CCB của Sư 313, từng có mặt trên Cao điểm 1509 Thanh Thủy, Vị Xuyên Hà Giang từ tháng 7/1981 cho đến 15 giờ 30 chiều 28/4/1984, ngày Cao điểm này vĩnh viễn rơi vào tay Trung Quốc đã gọi điện cho tôi: Chiều 24/7/2012 này, bọn em tổ chức gặp mặt những CCB từng chiến đấu tại Hà Giang, có thời gian mời anh lên nghe chuyện chiến đấu bảo vệ 1509…
Sở dĩ Tuấn chọn ngày 24/7 vì ngày 24/7 là ngày Tuấn nhập ngũ vào năm 1980; Cùng nhập ngũ với Tuấn dịp này tại Hương Canh có khoảng 30 đồng đội; hàng năm Tuấn và đồng đội thường lấy ngày này để tụ họp nhau ôn lại một quãng đời lính…
Theo hẹn, chiều 24/7 tôi phi xe từ Hà Nội lên, vào nhà Đường Minh Tuấn đã thấy chật cứng các CCB của Sư 313, khoảng 30 CCB phần lớn đang sinh sống tại Hương Canh và xã Thanh Lãng; Họ là những CCB từng có mặt tại Vị Xuyên những năm tháng ác liệt giai đoạn 1981-1984…
Thấy tôi đến, Đường Minh Tuấn dẫn tôi vào giới thiệu với CCB Nguyễn Đình Hát, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 457 thuộc Sư 313, đơn vị đã từng bắn tới những viên đạn cuối cùng nhằm bảo vệ 1509 và 772… Tại đây tôi còn gặp Đỗ Văn Năng, Trần Ngọc Viên, Kiều Văn Phong…những pháo thủ từng tham gia 2 trận đánh bảo vệ 1509 và 772…Đường Minh Tuấn cho biết: Riêng thị trấn Hương Canh vã xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, trong đoạn ác liệt nhất 1981-1985, đã đóng góp khoảng 70 lính cho mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang…
Tuấn là kế toán pháo binh của Trung đoàn 457 được đưa lên 1509 làm nhiệm vụ phối thuộc cùng đại đội giữ chốt là C 22, E 122, F 313; Tuấn có nhiệm vụ quan trắc, tính toán tọa độ bắn cho pháo binh ta bắn yểm trợ bảo vệ cao điểm nếu bị Trung Quốc tấn công…
Cao điểm 1509 có 3 mỏm: Đồi Cây khô, Mỏm 1 và Mỏm 2; Đồi cây khô do trung đội 1 chốt giữ do anh Sơn là Trung đội trưởng; Mỏm 1 do anh Sáng là Trung đội trưởng; Còn mỏm 2 lâu ngày Tuấn quên…Mỗi mỏm ở đây chiều dài khoảng 40-50 m, chiều rộng khoảng 25 m.Lực lượng chốt giữ cao điểm 1509 giai đoạn 1981-1984 về phía ta có khoảng 100 tay súng, vũ khí có: AK, B41, ĐKZ, Cối cá nhân 60, lựu đạn, mìn định hướng ĐH 10 ( Kleymo )…Về trang bị cá nhân cho bộ đội có súng AK cơ số đạn mỗi khẩu có khoảng 300 viên/ khẩu…
Ngoài ra từ bình độ 1200, Trung đoàn có đặt một số khẩu cối 120 để bắn yểm trợ trực tiếp; Để yểm trợ bảo vệ 1509, Sư 313 còn bố trí Trung đoàn pháo binh 457 đặt pháo 105 bắn yểm trợ…Công sự phòng ngự trên Cao điểm 1509 là hệ thống hầm bê tông, mỗi tiểu đội một hầm hình chữ U…
Điểm cao 1509 là một đỉnh núi thuộc xã Thanh Đức, huyện Vị Xuyên, Hà Giang, đường biên giới Việt-Trung chạy qua đỉnh núi này. Đây là đỉnh núi có khả năng khống chế bờ bắc suối Thanh Thủy, cho đến cửa khẩu Thanh Thủy, phía đông sông Lô.
Thời điểm quân Trung Quốc tràn sang lấn chiếm là ngày 28/4/1984, đơn vị phòng ngự là Đại đội bộ binh số 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 122, Sư đoàn 313. Đơn vị này đã phải đối mặt với một lực lượng xâm lấn đông gấp 10 lần, quân ta đã phải tổ chức phòng ngự kiên cường, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Tuy nhiên do quân Trung Quốc quá đông, hỏa lực bắn không tiếc đạn, quân ta đã phải rút về phía sau phòng ngự. Đây là một cuộc chiến thể hiện tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc.
Bản thân cái tên “ Núi Đất” hay Lão Sơn là cách gọi của Trung Quốc vì khu vực 1509 không có tên riêng, chỉ có số hiệu của các điểm cao của một dãy núi dài chạy suốt biên giới Trung Quốc của tỉnh Hà Giang. Tuy nhiên đối với các chiến sĩ trở về sau trận tử chiến, điểm cao 1509 còn được gọi với cái tên trìu mến là “ Đất Mẹ”; mảnh đất thiêng liêng của lãnh thổ Việt Nam. Với họ đó là niềm tự hào được đem xương máu của mình bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, một niềm vinh dự của người lính, mặc dù họ tham gia quân ngũ chưa lâu.
Tại sao quân Trung Quốc lại chọn mảnh đất biên cương Hà Giang, nơi chỉ có toàn đá là đá, cheo leo hiểm trở để làm mục tiêu xâm lấn lãnh thổ Việt Nam một lần nữa. Ngày 2/4/1984, quân Trung Quốc bắt đầu tiến hành bắn pháo ác liệt vào khu vực biên giới phía bắc trong đó hàng chục ngàn quả xuống vùng biên giới Vị Xuyên đặc biệt vào các cao điểm 1545, 1509, 685, 772, 1030, 400…và một số cao điểm phía đông Sông Lô. Suốt hơn 3 tuần lễ, ngày nào địch cũng bắn phá ác liệt, nặng nhất là khu vực 1509.
Theo ký ức của các CCB Đỗ Minh Sáng, Đường Minh Tuấn ( Sư 313) thì những ngày đầu tháng 4/1984, pháo Trung Quốc bắn lên điểm cao 1509 rát lắm. Các chiến sĩ chốt giữ ở đây phải ăn gạo sấy thay cơm. Không ai được tắm. Phải đi bộ gần tiếng đồng hồ mới tới suối lấy nước, trên đường đi dễ bị mất mạng vì đạn pháo Tàu. Pháo Trung Quốc từ bên kia biên giới bắn sang không theo một quy luật nào cả. Có ngày từ sáng đến trưa chúng bắn cầm canh từng quả một, nhưng đến chiều chúng lại dội xuống cả ngàn quả, khói bụi mù mít, các chiến sĩ chốt giữ tai ù điếc đặc.
Đường Minh Tuấn quê ở Hương Canh Vĩnh Phúc là một trong những CCB chốt giữ ở 1509 từ năm 1981, có nhiệm vụ quan trắc tính toán cho pháo binh ta bắn yểm trợ bảo vệ cao điểm nếu bị tấn công. Kể về chuyện pháo Tàu bắn ròng rã hơn 3 tuần lễ lên các điểm chốt, Đường Minh Tuấn kể: ”Bên cạnh mục tiêu phá hoại trận địa, việc chúng bắn lên lúc nhiều lúc ít là để gây ức chế, căng thẳng tột độ cho lính ta”…Cấp trên nhận định: “Địch có thể tấn công bất cứ lúc nào. Cả tháng trời, bộ binh mỗi ngày ngủ được vài tiếng. Trên đỉnh 1509, mọi người thay nhau canh gác, chia thành các tổ, chỉ cần nghe tiếng sột soạt bất cứ ở đâu là được phép bắn liền, bởi bọn thám báo Trung Quốc trong những ngày này hoạt động ráo riết, chúng liên tục tìm mọi cách lên đỉnh núi để nắm tình hình phòng thủ của Đại đội”.
Đúng 5 giờ sáng ngày 28/4/1984, pháo Trung Quốc bắn dồn dập lên cao điểm. Lần này chúng bắn rát hơn hẳn, ai nấy chỉ còn nghe thấy tiếng “ ục, ục” một mớ âm thanh hỗn tạp, đất đá, mảnh đạn bay rào rào vào trong hầm, khói bụi mù mịt. Dự đoán pháo binh Trung Quốc sắp tấn công, mọi người giữ vững trận địa sẵn sàng nổ súng. Khoảng hơn tiếng đồng hồ, tiếng pháo thưa dần, Trung Quốc chuyển qua bắn pháo giấy, loại pháo nổ trên không không gây sát thương, mục đích là để hù dọa, mở đường cho bộ binh leo lên. Chúng tôi lao ra khỏi hầm thì thấy trận địa bị cày nát cả trận địa phía trước. Khu rừng trúc trên đỉnh 1509 trước đay xanh mướt giờ chẳng còn gì.
Bên phía mỏm 1 do Trung đội 3 chốt giữ, nghe rõ tiếng của Trung đội trưởng Đỗ Minh Sáng quát rất rõ nhắc anh em vào vị trí chiến đấu. Bên mỏm cây khô có tiếng súng AK và tiếng đại liên, lựu đạn nổ liên tục, địch đã tiến đánh mỏm bên đó. Qua ống nhòm, Đường Minh Tuấn thấy phía trước mặt thấy nhiều tốp lính Trung Quốc lố nhố, đi theo đội hình kéo dài, thi nhau trèo lên 1509. Chúng quá đông cỡ trung đoàn. Địa hình nhỏ bé nên chúng chen chúc nhau, đi đầu là tốp áo đen chắc là dân công. Mãi phía sau mới thấy tốp lính mặc áo quần xanh lét của lính chính quy.Trước trận đánh từ trên đỉnh 1509, nhìn sang đất Trung Quốc thấy rất yên tĩnh, không thấy trại lính, không thấy nhiều phương tiện chiến tranh, dân cư bên ấy vẫn sinh hoạt bình thường. Có vẻ như quân Trung Quốc lặng lẽ đào hầm hào tiến lên đỉnh 1509 mở đường cho bộ binh lên xâm lấn.
Nói về cuộc tấn công của quân Trung Quốc, CCB Nguyễn Văn Hùng ở Tuyên Quang cho biết: “Không nói quá, quân Trung Quốc đông như kiến cỏ, đến mức mà mỗi quả ĐKZ tôi phóng xuống, dọn sạch cỡ một trung đội nhưng khi bắn xong, xác lính Trung Quốc bị hất tung lên, còn chưa kịp rơi xuống thì ngay vị trí lại thấy quân Trung Quốc bu kín như song nước”. Cho đến hiện tại, đồng đội vẫn gọi Hùng là là Hùng ĐK vì thành tích bắn nhiều ĐK trên 1509. Hùng bắn cỡ vài chục quả, diệt được nhiều địch không đếm được.
Ở trên đỉnh núi, không thể kê súng lên bắn theo cách thông thường, trên đỉnh 1509 ông Hùng kê súng lên vai và cứ thế bắn, bắn đến mức hai tai điếc đặc, người ngẩn ngơ. Hơn ba mươi năm sau, các chiến sĩ gặp nhau vẫn phải hét thật to mới nghe rõ. Với CCB Hùng, ký ức về 1509 vẫn còn ám ảnh cả trong giấc ngủ. Trở về sau cuộc chiến, nhiều đêm ông không ngủ được vì thương nhớ đồng đội vì những ký ức bi hung trong trận tử chiến. Có những đêm người nhà thấy ông Hùng bật dậy giữa đêm khuya hô lớn:” Bắn, bắn đi, quân Trung Quốc tràn lên rồi…”
Quay trở lại trận tấn công của quân Trung Quốc lên cao điểm 1509, Đường Minh Tuấn kể: ”Ngay khi thấy bọn lính Tàu tràn lên, mọi người ở các vị trí chốt giữ thi nhau nhả đạn, phía dưới là những cột khói đen chùm lên, bốc cao nghi ngút, kế tiếp là các bóng đen bị hất lên, rơi xuống bất động. Lúc này ở các trận địa phối hợp ta cũng phát hỏa đánh trả. Pháo 105 ly, cối 82 ly, H 12 đồng loạt bắn tới tấp. Trận địa cối từ bình độ 1200 của Trung đoàn 457 đặt ở Nậm Ngặt bắn vào đội hình địch rất chính xác. Quân Trung Quốc thương vong vô số, kêu la ầm ĩ ở phía dưới. Những tốp đi đầu tập trung lại tiến vào đường hào hình râu tôm có sẵn trên 1509, nhưng ngay lập tức chúng bị tan xác vì bị mấy quả mìn của chiến sĩ Thủ cài sẵn cùng với hỏa lực của các chiến sĩ khác khiến cho vài trung đội địch bị quét sạch. Lính Tàu không dám xông lên nữa. Cuộc tấn công đầu tiên lên đỉnh 1509 bị thất bại thảm hại. Chúng gọi pháo và các loại hỏa lực khác bắn trùm lên trận địa của ta. Phía ta bắt đầu có thương vong”…
Đợt tấn công thứ hai của quân Trung Quốc lên cao điểm 1509 bắt đầu 9 giờ sáng, chúng bắn pháo như mưa, tưởng như muốn san phẳng đỉnh núi rồi từ các ngả địch tấn công tổng lực. Phía ta quân số chưa tới 100 người quyết đấu với một lực lượng gấp hàng chục lần quá đông và hung hãn. Các chiến sĩ chốt giữ không ai chịu lùi bước. CCB Đỗ Minh Sáng khắng định: “Cuộc tấn công ngày 28/4/1984 dù chúng lấn chiếm được một số vị trí, quân số của chúng đông không kể hết, quân Trung Quốc kinh hoàng trước khả năng chiến đấu của bộ đội ta. Ở đợt tấn công thứ hai, bên phía chỉ huy đại đội 22 đã bắt đầu có thương vong. Khẩu đại liên do bộ binh tên Hải ( Tuyên Quang) và Trung đội trưởng Đỗ Minh Sáng sử dụng đang bắn kịch liệt xuống phía dưới thì trúng đạn pháo của địch. Hải hy sinh còn Đỗ Minh Sáng bị mảnh đạn găm vào đầu. Đỗ Minh Sáng tự băng bó và tiếp tục chỉ huy chiến đấu. Mỏm 1 gần đỉnh 1509 vẫn còn nguyên vẹn, nhưng đơn vị ở mỏm đồi cây khô quân Trung Quốc đã tràn lên chiếm giữ. Sơn, Trung đội trưởng Trung đội 1 và hơn một chục chiến sĩ chốt giữ ở đó đã hy sinh. Ngay sau đó Đại đội 23 đã tiến lên hỗ trợ bảo vệ đỉnh 1509. Địch co cụm lại không còn tấn công ào ạt như trước mà chia thành nhiều mũi đánh lên.
Đường Minh Tuấn đang xách khẩu AK tì vào vách chiến hào xả cả băng đạn về phía trước, bỗng phát hiện một tốp 5 tên chui qua gốc cây đổ phía dưới, anh chĩa AK bắn tới tấp. Tốp lính đang ẩn nấp không ngóc đầu lên được. Ở gần đó, một chiến sĩ tên Thạch phóng thẳng xuống một quả B 41, để lại một luồng lửa làm 5 tên tan xác. Một quả DH 10 ( mìn klaymo) bị pháo Trung Quốc hất tung ra khỏi chiến hào, chiến sĩ Thủ lặng lẽ bò ra nhặt lại rồi cài lên mép chiến hào, nằm im chờ cho lính Trung Quốc bò lên tới gần anh mới phát hỏa. Mìn nổ xong mấy anh em mò ra thì thấy sườn đồi không còn bóng giặc, chỉ còn nghi ngút khói đen. Đường Minh Tuấn nấp trên đỉnh bắn xuống hết cả mấy băng đạn. Anh lấy tiếp khẩu AK của đồng đội bị hy sinh gần đó bắn tiếp. Ngay lúc đó chiến sĩ tên Khoát (Vĩnh Phúc) của Đại đội 23 vác khẩu đại liên vừa lên đến nơi liền dõng dạc tuyên bố:” Vị trí này đẹp, đồng hương để cho tôi” rồi bóp còi liên hồi tưởng nhưu chưa bao giờ được bắn.
Đợt tấn công thứ 2 của quân Trung Quốc bị chặn đứng. Bọn Tàu tiếp tục xông lên nhưng không chiếm được, chúng tiếp tục tản ra và kêu gọi pháo bắn. Một trận pháo ác liệt trùm lên đầu các chiến sĩ ta. Pháo nổ liên hồi nhưng không ai chịu vào hầm, giữ nguyên vị trí chờ quân Trung Quốc tiến lên để tiêu diệt. Một quả cối 100 ly nổ ngay nóc chiến hào nơi Tuấn đang chốt giữ. Đạn nổ làm cho Tuấn choáng váng, máu trong mồm và mũi chảy ra. Khoát đặt khẩu đại liên cách đó chừng chục mét cũng bị đạn cày xới, Khoát hy sinh khi bị một quả DKZ của quân Trung Quốc từ bên đồi cây khô bắn sang. Trung đội trưởng Đỗ Minh Sáng bị thương lần thứ hai khi đang chiến đấu cùng đồng đội trên mỏm 1. Sáng bị một viên xuyên qua bả vai, chỉ còn bắn súng được một tay nhưng vẫn không chịu lùi ra phía sau, tiếp tục chỉ huy anh em chống trả quyết liệt.
Quân Trung Quốc tiếp tục tổ chức đợt tấn công thứ 3 lên đỉnh 1509. Chúng dùng ôtô chở quân áp sát trận địa, quyết đánh chiếm bằng được. Chúng tiếp tục chia thành nhiều mũi tấn công lên cao điểm 1509. Phía Việt Nam tiểu đoàn 2 ra lệnh cho Đại đội 5 tiến lên phản kích. Hai bên quần thảo, đánh nhau hàng tiếng đồng hồ trên đỉnh một ngọn núi nhỏ. Lần này quân Trung Quốc đã tràn lên được mỏm 2, các chiến sĩ chốt giữ ở đây đánh giáp lá cà với chúng. Đại đội trưởng Đại đội 6 Trần Ngọc Thông ( Ý Yên, Nam Định) đang chiến đấu với Đường Minh Tuấn tại mỏm 1, thấy mỏm 2 bắn nhau ác liệt đã lao xuống chỉ huy chiến đấu. Quân Trung Quốc tràn lên đông quá, bên phía ta cũng thương vong quá nhiều, ông Thông ra lệnh cho đồng đội rút xuống để bảo toàn lực lượng, còn bản thân mình thì ở lại. Đại đội trưởng Thông gọi: “ Cho pháo 105 ly bắn thẳng vào đầu chúng tôi đi, bọn địch tràn vào rồi.”
Lúc đó ta có hai khẩu cối 120 ly đặt ở bình độ 1200 bắn lên yểm trợ rất tốt, nhưng đến trưa thì không bắn được vì do bắn nhiều bàn đế lún sâu xuống đất, nòng bị nóng. Pháo 105 của Trung đoàn 457 đặt ở Nậm Ngặt không còn mãnh liệt như lúc sáng vì vận chuyển đạn dược vô cùng khó khăn. Đúng lúc đó, quân Trung Quốc tập trung bắn cối 60 ly và ném lựu đạn như mưa. Đại đội trưởng Trần Ngọc Thông đã hy sinh ở tuổi 27…Ờ gần đó xạ thủ B 41 Cao Xuân Chiêu bắn tới 17 quả đạn và cũng đã hy sinh tại trận địa. Quá trưa quân Trung Quốc đã tràn lên mỏm cây khô trên đỉnh 1509. Riêng mỏm 1 vẫn được giữ vững. Anh em chúng tôi chỉ còn ít đạn AK, lựu đạn mấy thùng đã quăng hết. Lực lượng chi viện của chiến trường không lên được tới đỉnh vì bị pháo địch bắn như mưa.
Địch lại chuẩn bị đợt tấn công mới. Trung đội trưởng Trung đội 3 báo cáo xin lệnh rút lui khỏi trận địa để chờ lệnh phản kích. Đỗ Minh Sáng và Đường Minh Tuấn nhớ lại: ‘Lúc ấy trên các mỏm, sau nhiều lần đánh bại các đợt tiến công của địch thì đầu giờ chiều quân Trung Quốc tiếp tục chở quân đến, dồn quân quyết tâm đánh chiếm mặc dù bất chấp trước đó chúng bị thương vong nhiều. Từ sáng chúng tôi mải đánh nhau với địch, chống trả các dợt tấn công. Chỉ biết lúc đó nhìn thấy ánh mặt trời chuyển sang phía tây phia đỉnh 1545, chắc cũng phải sang buổi chiều. Lúc đó, quân Trung Quốc chen chúc dưới chân đồi chuẩn bị tấn công đợt mới. Được lệnh rút xuống chờ phản kích. Anh em vừa bắn vừa rút lui qua mỏm 2. Anh Thọ chính trị viên đại đội là người rút cuối cùng. Khi địch tràn lên anh dùng súng bắn cản chúng lại. Giặc tràn lên mỏm đồi cây khô cùng bị 2 chiến sĩ đặt trung liên RPD bắn cản, bọn địch liên tiếp gục xuống nhưng chúng cậy đông vẫn cứ xông lên. Tôi và một đồng đội tên Hùng lao vào vách chiến hào thì một viên đạn sượt vành tai tôi xiên thẳng vào lưng của Hùng, người đồng đội ấy hy sinh. Nòng AK chúc xuống đất, người Hùng quay lại hướng về 1509. Có lẽ cậu ta muốn quay lại nhìn “ Đất mẹ” lần cuối, nơi đã sống chiến đấu tới hơi thở cuối cùng”. Đường Minh Tuấn ứa nước mắt khi kể về buổi chiều của hơn ba chục năm về trước.
Đầu năm 1987, Trung Quốc tiếp tục sử dụng quân số cấp sư đoàn đánh chiếm 13 điểm tựa của ta ở cả phía đông và tây sông Lô. Chúng bắn cả trăm ngàn đạn pháo và chi viện bộ binh liên tục tấn công nhưng đều bị đẩy lùi. Từ 12/1988, chúng lần lượt rút quân khỏi các vị trí chiếm đóng…Từ 3-9/1989 chúng rút toàn bộ khỏi các điểm còn lại trên vùng biên giới Vị Xuyên…
Điều mà nhiều CCB Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 đó là số phận những đồng đội của mình bị thương và nằm lại trong trận tử chiến 28/4/1984, theo Đỗ Minh Sang, Đường Minh Tuấn thì anh em chốt giữ bị thương cũng tương đối nhiều. Anh em bị thương được đưa vào hầm chỉ huy ở mỏm 2 trên đỉnh 1509, chờ quân tiếp viện đánh lên đên đưa về phía sau. Tuy nhiên khi quân tiếp viện chưa lên kịp, giặc tràn qua phủ kín mỏm 2 và anh em vẫn còn lại hết ở đó. Và cho đến bây giờ không còn một ai nhìn thấy họ nữa, coi như họ đã mất tích. Đó là nỗi đau của những người lính được trở về sau cuộc chiến…
Tuấn chỉ cho tôi gặp Đỗ Tiến Năng và Kiều Văn Phong, những pháo thủ pháo 105 tham gia trận này? Tôi hỏi đùa Đỗ Tiến Năng: Nghe nói khi tham gia trận này, các ông bị xích chân vào pháo có đúng không? Năng cười: Bọn em được phát mỗi người 1 khẩu AK, được giao nhiệm vụ giữ lại 3 viên đạn pháo cuối cùng để đề phòng trường hợp bị lính Trung Quốc tràn đến trận địa thì cho nổ tung pháo và dùng AK đánh nhau với chúng để bảo vệ trận địa… ( Theo một nguồn tin trên 1 trang mạng Trung Quốc, trận này phía Trung Quốc tổn thất mất 198 lính…)
Tôi hỏi Tuấn: Thế anh em chiến đấu, hy sinh như vậy có ai được khen thưởng gì không? Tuấn cho biết: Đơn vị sau này cũng đã có ý định đề nghị phong tặng danh hiệu anh hùng cho Đại đội trưởng Thông nhưng vì cao điểm mất nên không ai còn nghĩ đến nữa…
Nhìn gương mặt khắc khổ già trước tuổi của CCB Đường Minh Tuấn, Kiều Văn Phong, Đỗ Tiến Năng, Trần Ngọc Viên, Nguyễn Văn Thơm…tôi hỏi Tuấn: Thế anh em mình bây giờ sống như thế nào? Tuấn cho biết: Anh trông anh em thì sẽ thấy; Chỉ có tôi và một số anh em xoay xở được là còn tạm ổn, phần lớn anh em bây giờ vẫn nghèo, chưa kể còn bị di chứng chiến tranh, về quê làm ruộng thì đất đai vốn đã ít lại bị chính quyền địa phương thu hồi không đền bù…
Hoàn cảnh bi đát của những người tham gia cuộc chiến Vị Xuyên-Lão Sơn sau chiến tranh không chỉ xảy ra với với các CCB Việt Nam và cả với các CCB Trung Quốc. Tại Trung Quốc đã xảy ra nhiều cuộc biểu tình lớn, các CCB Trung Quốc từng tham gia cuộc chiến tranh biên giới Trung-Việt đã về tận Bắc Kinh để phản đối, đòi hỏi quyền lợi…
Lính F 313 ăn, ở, bảo vệ 1509 như thế nào?
CCB Vũ Xuân Trường: Theo Vũ Xuân Trường cho biết: Bộ đội của mình bảo vệ 1509 thì thường ngày phải ăn lương khô, thịt muối mặn, không có rau; Nước sinh hoạt thì hàng ngày phải mang can xuống một cái khe cách đó 1000 m để cõng lên; hàng tháng thay nhau xuống đó tắm một lần; Nước chỉ để dùng cho sinh hoạt tối thiểu…
Mặc thì 3 người một chiếc áo bông, người nào đi ra trực thì mặc, người không ra trực thì nằm trong hầm trùm chăn…Cả mùa đông gần như áo quần không giặt, người này mặc xong chuyền cho người khác nên dẫn tới ghẻ lở là chuyện thường…
Vũ khí thì được trang bị ĐK, Đại liên và AK, đơn vị pháo binh được bố trí 4 khẩu cối 120…
Theo Vũ Xuân Trường, nguyên nhân mất 1509 là do lực lượng của ta quá mỏng, không đủ sức chống lại cả một trung đoàn quân Trung Quốc tấn công…
Trước khi tổ chức tấn công vào ngày 28/4/1984, phía Trung Quốc đã bắn phá quấy rối gần một tháng; buổi sáng 28/4/1984, phía Trung Quốc cho dân binh lên trước cõng súng đạn lên, sau đó bộ binh chủ lực mới lên.
Quân ta đánh nhau với dân binh đã mệt rồi nên đến khi chủ lực Trung Quốc lên ồ ạ lên, anh em mình phải rút lui vì hy sinh nhiều…
CCB F 313 nói về nguyên nhân thất thủ 1509
– Nguyên nhân thất thủ 1509 là do phía chúng ta lực bất tòng tâm; Mặc dù tinh thần chiến đấu của bộ đội rất hăng hái, dũng cảm…
– Lính ta ở cả năm trời trên đấy, không có thay quân, có người từ khi nhập ngũ đến khi ra quân ở lỳ 3 năm trên 1509; Trong một bài do Trung Quốc viết, họ nói có 4 nữ bộ đội Việt Nam bị bắn chết ở trong hầm. Thực chất bộ đội ta không cắt tóc để dài ra nên lính Trung Quốc tưởng là bộ đội nữ…
Ăn uống thì thiếu thốn, thiếu chất, áo rét thì 3 người thay nhau một chiếc áo bông, ai ra trực thì mặc;
– Trận địa phòng thủ thì sơ sài, chủ quan, chưa lường hết được dã tâm của Trung Quốc quyết tâm đánh chiếm bằng mọi giá;
– Trong khi quân Trung Quốc thì được ôtô chở tiếp tế đạn còn ta thì dùng vai cõng lên lại đòi phạt lại Trung Quốc; Đạn được của ta thiếu và chất lượng không đủ; Lựu đạn, đạn pháo bị xịt nhiều, bắn không nổ, ném không nổ…
CCB Thanh Van Dang: Tôi cũng là lính chiến ở Vị Xuyên -Ha Giang. Trận đánh giữ 1509 của bộ đội ta lúc kết thúc cả trung đoàn pháo binh 457 thuộc sư 313 Quân khu 2 chỉ còn 37 viên đạn pháo. Đạn cũng chẳng còn để bắn.
Giai đoạn này tôi làm chính trị viên Tiểu đoàn pháo d 12, e 457, f 313 quân khu 2. Đồng đội hy sinh nhiều quá trong cuộc chiến tranh này. Chúng ta phải mãi tri ân họ. Cần đưa vấn đề này ra ánh sáng.
Nhận xét về trách nhiệm của các tướng lĩnh về Chiến dịch MB 84 mà các bạn nêu ở trên là đúng. Do họ quan liêu và kém cỏi, không nắm vững tình hình chiến trường. Sau trận thua mà các đồng đội nói 1200 người hy sinh có kẻ là sỹ quan cao cấp trong Bộ Quốc phòng phản bội bán thông tin cho Tàu,thời điểm đó tôi cũng được nghe xì xào chuyện đó rồi…
(*) Rút từ trong bộ Vị Xuyên& thế sự Việt Trung – Sưu tập Phạm Viết Đào trọn bộ 5 tập trên 3000 trang)