Khánh An dịch
(VNTB) – “Ông đã mang sự kỳ diệu của những cuốn sách nổi tiếng nhất thế giới đến với độc giả Việt Nam”
Tác giả: Seth Mydans
Dương Tường, một dịch giả sung mãn, đã giới thiệu một loạt các tác phẩm văn học phương Tây cho độc giả Việt Nam hơn 50 năm qua. Ông qua đời vào ngày 24 tháng 2 tại Hà Nội, Việt Nam, thọ 92 tuổi.
Con gái ông, bà Trần Phương Mai, xác nhận ông tử qua đời do nhiễm trùng đường hô hấp, tại một bệnh viện quân đội.
Từ một nhà thơ chuyển sang dịch thuật để nuôi sống gia đình, ông Tường đã dịch hơn 50 cuốn sách lớn nhỏ, từ tiếng Anh và tiếng Pháp, cũng như các bản dịch thứ cấp từ tiếng Nga, tiếng Đức và một số ngôn ngữ khác.
“Ông đã mang sự kỳ diệu của những cuốn sách nổi tiếng nhất thế giới đến với độc giả Việt Nam”, nhà văn và nhà báo Ngô Thị Kim Cúc nói.
Yêu thích nhiều thứ, ông Tường nói rằng ông thích những thách thức, dịch [sách của] những các nhà văn khó nuốt như Proust, Nabokov, Camus, Sartre, Emily Brontë, Céline, Chekhov, Murakami, Günter Grass và Tolstoy.
Ông Tường chịu ảnh hưởng từ cả văn học và nghệ thuật khi thế giới văn hoá hậu chiến của Việt Nam mở rộng. Ông đã viết bài phê bình nghệ thuật và sáng lập ra nhóm hoạ sĩ 5 “chàng ngự lâm” – Gang of Five.
“Sống trong hệ thống cứng nhắc của Cộng sản Việt Nam vốn buộc tất cả các loại hình văn hóa phục vụ cho lợi ích của nhà nước, Dương Tường đã dịch những kiệt tác nhân văn như ‘Anna Karenina’ và nuôi dưỡng tài năng nghệ thuật của những người tiến bộ trẻ và những người không theo khuôn phép,” Peter Zinoman, giáo sư lịch sử và nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại học California, Berkeley, cho biết trong một email. “Ông Tường đã đóng một vai trò rất lớn trong việc tự do hóa văn hóa Việt Nam dưới những điều kiện cực kỳ phi tự do do do chiến tranh và cách mạng tạo ra. Ông ấy cũng là một con người vô cùng dễ mến.”
Ông Tường đã có cách tiếp cận độc đáo trong dịch thuật, truyền tải tác phẩm của mình với tính cách của riêng. Ông thường nói: “Một bản dịch lý tưởng phải là một tác phẩm trong đó dịch giả cũng là đồng tác giả”.
“Tôi đã giữ quan điểm này khi dịch gần 60 tác phẩm nước ngoài sang tiếng Việt”, ông nói với một nhà báo của tờ báo Thanh Niên. “Bám lấy câu chữ không phải là trung thành mà là nô lệ, có thể đi ngược lại ý tưởng chung, chủ đề chung.
Điều này đúng với những gì ông coi là thách thức lớn nhất và thành tựu đỉnh cao, bản dịch từ Việt Anh của Truyện Kiều của nhà thơ thế kỷ 19 Nguyễn Du. Ông Tường đã nhận dịch Truyện Kiều khi ông đã hơn 80 tuổi, với sức khỏe và thị lực giảm sút.
Truyện Kiều, trước đây đã được dịch nhiều lần, được coi là kiệt tác đỉnh cao của văn học Việt Nam, kể về một phụ nữ trẻ hy sinh bản thân để cứu gia đình. Hầu hết người Việt Nam có học đều có thể đọc những dòng mở đầu của Truyện Kiều, về cuộc so tài giữa tài năng và số phận.
Khi được Nhà xuất bản Nhã Nam xuất bản vào năm 2020 với 3.354 câu và gần 10 trang ghi chú của dịch giả, sách mang tựa đề “Kiều: Bản tiếng Anh của Dương Tường”.
“Đây là đỉnh cao lớn nhất trong hành trình của tôi cho đến nay gần 90 tuổi”, ông nói với Thanh Niên. “Khi tôi vẫn còn minh mẫn và khoẻ mạnh, tôi mơ ước làm điều đó, nhưng không dám. Khi mắt tôi gần như bị loà, với nhiều bệnh già, tôi quyết định bước vào cuộc phiêu lưu cuối cùng, thử thách cuối cùng.
Bị bệnh dời leo nặng, mắt loà chỉ nhìn được hình bóng lờ mờ, ông nói rằng ông liên tục tiêm thuốc vào mắt, thuê độc giả trẻ làm trợ lý và có được một màn hình máy tính thật lớn và có khi chỉ gõ được một vài từ. “Tôi mò mẫm, tỉ mỉ gõ từng từ,” ông nói.
Nhưng ông có thể vượt qua sự mù loà bằng cách học thuộc truyện đến nỗi có thể dịch dựa vào trí nhớ.
“Truyện Kiều” đã ở trong đầu tôi rồi, ” ông nói với phóng viên. “Tôi chỉ chuyển sang tiếng Anh.”
Trần Dương Tường sinh ngày 4/8/1932 tại tỉnh Nam Định, miền Bắc Việt Nam. Cha ông, Trần Phúc Gia, và mẹ ông, Vũ Thị Thọ, đều là những thương gia nhỏ. Ông học trung học ở Hà Nội, sau đó tham gia kháng chiến chống Pháp vào năm 1949.
Một nhà cách mạng tận tụy.
“Cho đến ngày nay, tôi vẫn nghĩ — và vẫn khẳng định — cuộc kháng chiến chống Pháp là thời kỳ vàng son của cách mạng Việt Nam”, ông nói với phóng viên Phạm Tường Vân. “Nếu tôi có thể sống trong thời gian đó một lần nữa, tôi vẫn sẽ làm như vậy, đó là bỏ nhà đi nhập ngũ.”
Thời kỳ đó kết hợp hai chủ đề lớn trong cuộc đời ông: cách mạng và sự nghiệp văn học.
Ông tự học tiếng Pháp và tiếng Anh và bắt đầu đọc những cuốn sách mà ông tìm thấy được trong các đồn trại của người Pháp, ông gọi đó là “chiến lợi phẩm quan trọng nhất” của chiến tranh.
“Năm 1955, khi tôi xuất ngũ, tôi tiếp tục tự học ở thư viện”, ông nói. “Có thể nói thư viện là trường đại học của tôi.”
Trong thập niên tiếp theo, khi làm thơ, ông Tường là một trong những phóng viên và biên tập viên đầu tiên của Thông tấn xã Việt Nam, sau đó làm phiên dịch cho một ủy ban chính phủ điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ trong 10 năm.
Thu nhập của ông từ thơ và hãng thông tấn không đủ để nuôi sống gia đình nên ông đã chuyển sang dịch thuật,và bán máu để đổi lấy cái gọi là “gạo, gạo, tiền.”
Sự lựa chọn bản dịch của ông phản ánh một tâm trí sống động và dường như ở mọi nơi, cả nghệ thuật cao và thấp.
Nổi tiếng với bản dịch “Cuốn theo chiều gió”, Dương Tường đã dịch rất nhiều tác phẩm văn học thế giới, từ “Charlie và nhà máy sô cô la” của Roald Dahl đến “Bức thư của người đàn bà không quen” của Stefan Zweig, đến “Cội rễ” của Alex Haley, “Alexis Zorba con người hoan lạc” của Nikos Kazantzakis, Cam Nguyễn, giảng viên tại khoa nghiên cứu Nam và Đông Nam Á tại Đại học California, Berkeley, cho biết trong một email.
Ông tiếp tục làm thơ, thử nghiệm hình thức thơ cách tân, nhiều bài thơ được phổ nhạc trong đó có “Tình khúc 24” , một bản tình ca lãng mạn ra mắt năm 1998, trở thành những bài hát nổi tiếng.
“Mối quan tâm lớn nhất, điều khiến tôi mất ngủ nhiều nhất, vẫn là thơ ca, mong muốn đổi mới và mở ra những hướng đi mới”, ông nói.
Những con chữ không bao giờ ngưng nghỉ, ông nói, ngay cả khi đang ngủ, đôi khi ông thức giấc vào giữa đêm với những cảm hứng mới.
Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2020, ông nói: ”Tôi vẫn ‘ăn nằm với con chữ’ như một thói quen gần 60 năm nay. Tôi không để đầu óc mình ngơi nghỉ.”.
Ông Tường sống với vợ là bà Nguyễn Thị Trinh; chị gái Trần Thị Liên; con gái Trần Phương Mai và Trần Thị Hương; con trai là Trần Hải Âu; năm đứa cháu; bốn đứa chắt và một đứa chút.
Phát ngôn của ông Tường thường được trích dẫn là câu “Tôi đứng về phe nước mắt”. Ông nói câu này có thể ghi trên mộ chí của mình.
Ông nói rằng cụm từ này thể hiện niềm tin của ông vì đó là nhiệm vụ của mỗi chúng ta để lưu tâm đến một thế giới với những khổ đau, yếu đuối, bị áp bức, và để làm cho “ nước mắt ngừng chảy”.
https://www.nytimes.com/2023/03/07/world/asia/duong-tuong-dead.html