Việt Nam Thời Báo

VNTB – Kỷ nguyên mới của phồn vinh giả tạo

TS Phạm Đình Bá

 

(VNTB) – Để đáp ứng chi phí sinh hoạt cơ bản, ít nhất hai thành viên trong gia đình cần phải đi làm, và nhiều người lao động buộc phải làm thêm công việc phụ hoặc chấp nhận mức sống thấp hơn.

 

Đến nay nếu bạn không tự cô lập cả năm trong một hang Pác Bó đâu đó, chắc bạn không ít nhiều cũng nghe ông Tổng Bí thư trao đổi về ‘kỷ nguyên phát triển mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam’.

Thật vậy, nước ta là thành viên của một số hiệp định thương mại tự do, bao gồm Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Bất chấp các hiệp định thương mại này và GDP ngày càng tăng, người lao động trung bình bên nhà không kiếm đủ tiền lương hoặc tiền công để có một cuộc sống đàng hoàng.

Bài này xem xét khoảng cách giữa tăng trưởng kinh tế và tiền lương của người lao động, khám phá các yếu tố cơ bản duy trì khoảng cách giữa tăng trưởng và tiền lương, chiếu rọi một phần nào cái nghịch lý trong hiện trạng “phồn vinh giả tạo” trên cả nước.

Thực Trạng Tiền Lương

Trước khi xem xét các nguyên nhân, điều quan trọng là phải hiểu tình hình lương hiện tại ở trong nước. Mặc dù đã có những tăng lên gần đây, tiền lương vẫn không đủ cho nhu cầu cơ bản của nhiều người lao động.

Mức Lương Tối Thiểu và Lương Trung Bình Không Đủ

Nhà nước thiết lập các mức lương tối thiểu khác nhau trên bốn vùng, với mức cao nhất là 4,96 triệu VNĐ (198 USD) mỗi tháng ở các khu vực đô thị như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, và mức thấp nhất là 3,45 triệu VNĐ (138 USD) ở các vùng nông thôn. Mặc dù mức lương trung bình của người lao động đã đạt khoảng 8,5 triệu VNĐ (340 USD) mỗi tháng vào năm 2024, số tiền này vẫn còn thiếu hụt đáng kể để trang trải chi phí sinh hoạt cơ bản.

Một cuộc khảo sát của các cơ quan có liên quan cho thấy chi tiêu hàng tháng trung bình cho một hộ gia đình người lao động đạt 14,059 triệu VNĐ (562 USD), có nghĩa là thu nhập cá nhân của người lao động hiện chỉ đáp ứng được khoảng 63% chi phí hộ gia đình. Để đáp ứng chi phí sinh hoạt cơ bản, ít nhất hai thành viên trong gia đình cần phải đi làm, và nhiều người lao động buộc phải làm thêm công việc phụ hoặc chấp nhận mức sống thấp hơn.

Phụ Thuộc vào Làm Thêm Giờ để Tồn Tại

Nhiều người lao động phụ thuộc vào việc làm thêm giờ để đạt được mức thu nhập đủ sống. Khi được phỏng vấn, hầu hết người lao động bày tỏ rằng họ chỉ mong muốn có đủ để “sống sót” hơn là khát vọng “sống một cuộc sống tử tế” với thời gian để nghỉ ngơi và hưởng thụ. Mỉa mai thay, người lao động thường hy vọng công ty của họ nhận được nhiều đơn hàng hơn để họ có thể làm thêm giờ nhiều hơn, bất chấp gánh nặng thể chất của việc làm việc kéo dài.

Các Yếu Tố Duy Trì Mức Lương Thấp Bất Chấp Tăng Trưởng Kinh Tế

1. Vị Trí Giá Trị Thấp trong Chuỗi Cung Ứng Toàn Cầu

Sự tăng trưởng kinh tế phần lớn được thúc đẩy bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tập trung vào các phân khúc giá trị thấp của chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo các chuyên gia, phần lớn FDI đã đi vào “cắt, may, cắt tỉa, hoặc lắp ráp hoặc xử lý nguyên liệu thô nhập khẩu hoặc các bộ phận đến từ bên ngoài”. Vị trí này có nghĩa là Việt Nam chỉ thu được giá trị gia tăng tối thiểu từ xuất khẩu, với giá trị đó chủ yếu được sử dụng “để trả lương thấp cho người lao động”.

Nền kinh tế vẫn bị chi phối bởi công việc lắp ráp kỹ năng thấp trong các nhà máy điện tử, may mặc và giày dép, nơi “hầu hết là công nhân nữ trẻ tham gia lực lượng lao động với mức lương không đủ sống và điều kiện làm việc dưới tiêu chuẩn”.

2. Chiến Lược Lương Thấp Có Chủ Đích để Thu Hút Đầu Tư

Đảng và nhà nước đã cố ý định vị mình là một nền kinh tế lương thấp để thu hút đầu tư nước ngoài. Như đã nêu trực tiếp trong kết quả tìm kiếm, “Lao động chi phí thấp là một trong những lý do chính đằng sau sự gia tăng FDI và chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất”. Chiến lược này đã thành công trong việc thu hút đầu tư nhưng đã khiến người lao động rơi vào vòng xoáy của mức lương thấp.

Mặc dù tiền lương đã tăng gấp đôi từ năm 2010 đến năm 2020 (từ khoảng 400 USD lên 800 USD mỗi tháng), chúng vẫn thấp hơn so với các nước láng giềng có thu nhập trung bình cao như Thái Lan và Malaysia. Mức lương này vẫn không đủ cho một mức sống tử tế đối với hầu hết người lao động.

3. Áp Lực Chuỗi Cung Ứng và Thực Hành Kinh Doanh Không Công Bằng

Lương thấp liên quan trực tiếp đến các thực hành kinh doanh không công bằng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đấu thầu cạnh tranh cho các nhà cung cấp, giá không thể thương lượng, đơn hàng nhỏ và không ổn định, thời gian giao hàng ngắn, và hình phạt nghiêm khắc cho việc không tuân thủ của các thương hiệu quốc tế dẫn đến áp lực giảm lương cho người lao động.

Khi các thương hiệu toàn cầu đòi hỏi sản xuất nhanh và rẻ, các nhà máy Việt buộc phải cắt giảm chi phí, thường là bằng cách giảm lương của người lao động. Các đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp do các công ty thực hiện thường không hiệu quả vì chúng thường không bao gồm tiêu chuẩn về mức lương đủ sống.

4. Nâng Cấp Công Nghiệp và Phát Triển Kỹ Năng Còn Hạn Chế

Mặc dù có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, đất nước vẫn đang phải vật lộn để tiến lên chuỗi giá trị vào các ngành công nghiệp đòi hỏi kỹ năng cao hơn, trả lương cao hơn. Đất nước đối mặt với những thách thức đáng kể về thiếu hụt kỹ năng và nhân tài, đặc biệt là trong các ngành như công nghệ và ngân hàng. Với 37,8 triệu lao động thiếu đào tạo nghề chính quy, thị trường lao động vẫn bị hạn chế bởi mức độ đào tạo thấp.

Chỉ có 12% lực lượng lao động được coi là có kỹ năng cao, hạn chế khả năng của người lao động trong việc tiếp cận các công việc trả lương cao hơn. Khoảng cách kỹ năng này duy trì vòng xoáy việc làm lương thấp, vì người lao động thiếu cơ hội thăng tiến vào các vị trí trả lương cao hơn.

5. Lợi Ích Không Tương Xứng từ Các Hiệp Định Thương Mại

Mặc dù các hiệp định thương mại tự do đã thúc đẩy đáng kể xuất khẩu của Việt Nam, nhưng lợi ích không được chia sẻ tương xứng với người lao động. Ví dụ, theo EVFTA, xuất khẩu của Việt Nam sang EU được ước tính sẽ tăng khoảng 43% vào năm 2025, với các ngành cụ thể thậm chí còn có mức tăng trưởng cao hơn: dệt may (67%), da giày (34%), và gạo (65%).

Tuy nhiên, lợi ích về tiền lương dự kiến sẽ khiêm tốn hơn nhiều, với mức lương thực tế của người lao động không có kỹ năng ước tính chỉ tăng 3% vào năm 2025. Sự chênh lệch này cho thấy lợi ích kinh tế từ các hiệp định thương mại không được phân phối công bằng cho người lao động.

6. Quyền Lao Động và Thương Lượng Tập Thể Còn Hạn Chế

Cho đến gần đây, hệ thống tổ chức lao động trong nước đã hạn chế khả năng của người lao động trong việc vận động cho mức lương tốt hơn. Tất cả các công đoàn đều phải được phê duyệt và liên kết với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, một liên đoàn do nhà nước điều hành. Mặc dù các cải cách gần đây đã cho phép các công đoàn độc lập, quá trình chuyển đổi chỉ trên hình thức nhưng thực chất đảng vẫn tiêu diệt những cố gắng của người lao động để có tiếng nói độc lập và đại diện cho họ.

Quyền lao động đã bị suy yếu khi đảng quyết định mở cửa cho thương mại toàn cầu. Mức lương tối thiểu, ban đầu được thiết lập ở mức “lương đủ sống”, đã bị cắt giảm và bị lạm phát vượt qua, và sức mạnh thương lượng của các công đoàn do nhà nước bảo trợ đã suy yếu.

7. Tác Động Lan Tỏa Tiêu Cực về Lương từ FDI

Trái với kỳ vọng rằng FDI có thể làm tăng lương trong toàn bộ nền kinh tế, trong một số trường hợp, sự hiện diện của FDI thực sự tạo áp lực giảm lương cho các doanh nghiệp trong nước. Mặc dù các doanh nghiệp FDI trả lương trung bình cao gấp 2,25 lần so với doanh nghiệp trong nước, sự gia tăng 1% trong sự hiện diện của FDI khiến các doanh nghiệp trong nước cắt giảm mức lương trung bình đi 2%. Hiệu ứng lan tỏa tiêu cực không mong đợi này góp phần làm cho tiền lương trì trệ.

Tóm tắt

Nghịch lý về tăng trưởng kinh tế mà không có sự tăng lương tương xứng cho người lao động bắt nguồn từ nhiều yếu tố liên kết với nhau. Mặc dù các hiệp định thương mại và đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy GDP và xuất khẩu, cấu trúc của sự tăng trưởng này—tập trung vào sản xuất và lắp ráp giá trị thấp—đã không tạo ra những cải thiện đáng kể trong thu nhập của người lao động.

Việt Nam đối mặt với thách thức chuyển đổi từ một nền kinh tế định hướng xuất khẩu với mức lương thấp sang một nền kinh tế tạo ra các công việc có giá trị cao hơn với mức lương tốt hơn. Điều này sẽ đòi hỏi giải quyết khoảng cách kỹ năng, tăng cường quyền lao động và thương lượng tập thể, cải cách chính sách lương tối thiểu, và phát triển các chiến lược để tiến lên trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Nếu không giải quyết những vấn đề cơ bản này, đất nước có nguy cơ vẫn bị mắc kẹt trong một chu kỳ lương thấp, kỹ năng thấp bất chấp sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng và sự hội nhập ngày càng tăng vào nền kinh tế toàn cầu thông qua các hiệp định thương mại tự do.

 


 

Tin bài liên quan:

VNTB – Đồng tiền đi trước…

Phan Thanh Hung

VNTB – Thực phẩm không an toàn và trò múa rối của độc tài toàn trị

Baraju T. Ogelefecejo

VNTB – Xã hội cố làm mà đảng phá việc dân nước có thu nhập cao ra sao?

Do Van Tien

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Việt Nam Thời Báo