Trần Thành – Huệ Nguyễn
(VNTB) – Ở nghị trường Quốc hội sắp khai mạc vào ngày mai, cần ban hành ngay một văn bản về sửa đổi luật, cho phép khiếu kiện tập thể thông qua người đại diện trong các tranh chấp môi trường về yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản do ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường gây ra.
Giáo dân Quỳnh Lưu, Nghệ An đến toà án thị xã Kỳ Anh
Ngày 17-10-2016, ông Hồ Ngọc Dũng phó chủ tịch huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Hà Tĩnh có văn thư số 1526/UBND-NV, gửi Linh mục Đặng Hữu Nam và Hội đồng mục vụ giáo xứ Phú Yên, yêu cầu “không tổ chức cho bà con giáo dân đi vào huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh”.
Theo văn thư này, “Linh mục và bà con giáo dân tổ chức đi vào huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh trong điều kiện mưa bão sẽ không an toàn và không phù hợp với điều kiện cụ thể hiện nay (do chính quyền và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đang tập trung phòng chống cơn bão số 7). Đề nghị Linh mục không nên tổ chức cho bà con giáo dân đi vào tỉnh Hà Tĩnh và nếu đã đăng ký lịch làm việc với Tòa án nhân dân huyện Kỳ Anh, chỉ nên cử đại diện ít người tham gia để đảm bảo an toàn cho bà con nhân dân”. (dừng trích)
Yêu cầu này của ông Hồ Ngọc Dũng cần được xem xét về “Hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự”, thuộc Chương XL, Bộ Luật tố tụng dân sự 2015. Pháp luật về tố tụng dân sự lâu nay không chấp nhận đơn khởi kiện tập thể. Sau khi đơn khởi kiện được chấp nhận thì người khởi kiện mới có quyền uỷ quyền cho cá nhân khác tham gia tố tụng thay mình. Do đó việc người dân đến tòa án thị xã Kỳ Anh để nộp đơn khởi kiện Formosa Hà Tĩnh là đúng quy định tại Điều 189 và 190 của Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.
Qua vụ việc Formosa Hà Tĩnh, và trước đó nữa là Vedan (cả 2 tên tuổi này đều đền từ Đài Loan), cho thấy vấn đề tư pháp môi trường ở Việt Nam cần gấp rút có những thay đổi phù hợp.
Quy định về người tham gia giải quyết tranh chấp môi trường
Thực tiễn cho thấy rằng việc không cho phép khởi kiện tập thể sẽ gây rất nhiều khó khăn cho người dân muốn khởi kiện, tốn kém chi phí tham gia vụ kiện và thậm chí cả toà án cũng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Ví dụ, trong vụ Vedan xảy ra vào năm 2008, nếu toàn bộ 6.973 hộ nông dân bị thiệt hại trong vụ Vedan đồng loạt khởi kiện đòi Vedan bồi thường thì sẽ có 6.973 đơn kiện và 6.973 vụ kiện mà toà án phải xem xét, giải quyết. Và khi mà toà án buộc phải xem xét 6.973 bộ hồ sơ, sẽ khiến việc giải quyết của toà buộc phải mất nhiều năm, vi phạm thời hạn giải quyết mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
Hiện tại, chỉ riêng một huyện Quỳnh Lưu ở tỉnh Nghệ An, số lượng nguyên đơn khởi kiện Formosa Hà Tĩnh cũng lên tới 1.000 đơn như thông báo hôm 16-10 của Linh mục Đặng Hữu Nam.
Pháp luật hiện hành của Việt Nam quy định mỗi tổ chức, cá nhân muốn khởi kiện phải tự mình làm đơn khởi kiện, mỗi đơn khởi kiện là một vụ án. Nếu như tòa án không linh hoạt vận dụng quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về nhập, tách vụ án thì tòa án sẽ phải giải quyết lần lượt từng vụ án theo đúng trình tự tố tụng luật định.
Cần chấp nhận cả “người khiếu kiện tiềm năng”
Việc cản trở người dân khiếu kiện Formosa Hà Tĩnh từ một số văn bản hành chánh vừa qua của chính quyền cấp huyện đến cấp tỉnh cho thấy những quan chức này vừa công khai vi phạm tố tụng dân sự, đồng thời càng dễ khiến người dân nổi giận vì bị chèn ép quá mức.
Trước yêu cầu của thực tiễn, nếu đúng tinh thần cầu thị của người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam tại buổi tiếp xúc cử tri trước kỳ họp Quốc hội hôm 17-10, thiết nghĩ ở nghị trường Quốc hội sắp khai mạc vào ngày mai, cần ban hành ngay một văn bản về sửa đổi luật, cho phép khiếu kiện tập thể thông qua người đại diện trong các tranh chấp môi trường về yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản do ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường gây ra.
Điều này sẽ giúp giảm bớt gánh nặng cho tòa án trong việc tiến hành các thủ tục tố tụng, đồng thời giúp tiết kiệm tài chính và thời gian giải quyết các tranh chấp môi trường. Đồng thời, cơ chế khiếu kiện tập thể cũng giúp cân bằng hơn vị thế của bên bị thiệt hại với bên gây thiệt hại trong tranh chấp môi trường, giúp ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương nơi diễn ra tranh chấp. Khiếu kiện tập thể có thể được thực hiện thông qua một hoặc một nhóm người đại diện do các chủ thể bị thiệt hại ủy quyền thông qua văn bản ủy quyền. Để đảm bảo tính tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thì đơn khởi kiện tập thể cần có chữ ký đầy đủ của các chủ thể có nhu cầu khởi kiện.
Tuy nhiên, do đặc trưng của tranh chấp môi trường nên việc xác định được chính xác đương sự trong tranh chấp là rất khó. Để tạo điều kiện cho các chủ thể bị thiệt hại, pháp luật có thể quy định theo hướng “người khiếu kiện tiềm năng”. Theo đó, khi một hoặc một vài chủ thể nộp đơn khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản do ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường gây ra, tòa án sẽ ra thông báo cho các chủ thể sinh sống và làm việc trong cùng khu vực, cùng khai thác sử dụng thành tố môi trường đó (những người có nguy cơ gặp phải các thiệt hại tương tự) về đơn khởi kiện và ấn định một thời hạn để người khiếu kiện tiềm năng nộp đơn/ký vào đơn khiếu kiện.
Hoán đổi nghĩa vụ chứng minh
Quy định về nghĩa vụ chứng minh là rào cản đối với giải quyết tranh chấp môi trường. Vì với cách thức quy định hiện hành thì nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về phía các chủ thể có yêu cầu.
Đối với các tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và môi trường thì chủ thể yêu cầu bồi thường ngoài việc chứng minh đã có thiệt hại thực tế xảy ra, còn phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường với những thiệt hại về môi trường và mối quan hệ nhân quả giữa những thiệt hại về môi trường đó với những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của họ.
Nghĩa vụ chứng minh này gần như nằm ngoài khả năng tài chính và năng lực của các chủ thể bị thiệt hại. Quy định này đã giúp các chủ thể gây thiệt hại ung dung và coi thường pháp luật, không sợ khởi kiện bởi các chủ thể này cho rằng, người bị thiệt hại sẽ rất khó để đưa ra được bằng chứng chứng minh cho yêu cầu của mình. Như vậy, quy định hiện hành phần nào giúp cho bên gây thiệt hại có thêm lợi thế, đẩy xa hơn sự không cân bằng vị thế của các bên tranh chấp.
Để khắc phục hạn chế này, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm pháp lý của nhiều quốc gia khác là quy định “hoán đổi nghĩa vụ chứng minh” của các đương sự. Theo đó, người bị thiệt hại sẽ không phải chứng minh cho yêu cầu của mình, không phải chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường với những thiệt hại xảy ra. Thay vào đó, người gây thiệt hại sẽ phải có nghĩa vụ chứng minh họ không phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại đó; hoặc trách nhiệm của họ có thể được giảm nhẹ trong những hoàn cảnh nhất định theo quy định của pháp luật; hoặc phải chứng minh không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của mình và thiệt hại.
Nếu áp dụng theo nguyên tắc này, sẽ giảm nhẹ gánh nặng cho các chủ thể bị thiệt hại trong tranh chấp môi trường. Hơn nữa, chủ thể gây thiệt hại có khả năng thực hiện nghĩa vụ chứng minh tốt hơn so với các chủ thể bị thiệt hại. Bởi các chủ thể gây thiệt hại về môi trường thường là các chủ đầu tư, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ có tiềm lực về kinh tế nên có khả năng thực hiện được các nghĩa vụ đó.
Bên cạnh đó, chủ thể gây thiệt hại là người thực hiện hành vi nên việc cung cấp chứng cứ để chứng minh mình không phải chịu trách nhiệm, hoặc hành vi đó diễn ra trong một hoàn cảnh bất khả kháng, hoặc không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại là dễ dàng hơn. Các chứng cứ để chứng minh có thể là các giấy chứng nhận đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn; thiết kế hệ thống xử lý chất thải đúng với nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt hoặc các bằng chứng chứng minh tình huống bất khả kháng dẫn đến các thiệt hại đối với môi trường…
Cách thức quy định này giúp chủ thể gây thiệt hại ngại ra tòa nên sẽ có thiện chí hơn trong việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải, giúp giải quyết tranh chấp môi trường đạt hiệu quả cao và không tốn kém.