Dương Tử
(VNTB) – Ngày nay có cả một Hội Đồng Các Vua (vua tập thể) hỏi có ai nói và làm thể hiện lòng yêu nước như vua xưa?
Dẫn nhập
Nhiều năm qua, dường như vào quý 4 cuối năm, các vụ án quan chức được công bố dồn dập. Bời vỉ thời hạn đặt ra theo kế hoạch hàng năm phải được hoàn thành để lập thành tích dâng Đảng. Những năm qua, tham nhũng có vẻ không giảm mà “ổn định bền vững” với thời gian.
Trong 1 tháng qua, đặt biệt mấy ngày gần đây các vụ án nổi cộm được công bố dồn dập. Toàn bộ 9 tướng lãnh Bộ tư lệnh Cảnh sát biển sa vào“lưới cá Biển Đông”. Ban giám đốc bệnh viện Bạch Mai – BV lớn nhất ở Hà Nội. Đám lãnh đạo ở Bộ Y tế và Cục Dược. Đám lãnh đạo Hội Chữ thập đỏ trung ương. Đặc biệt Vụ án mới nhất hôm qua xử phó Tổng cục trưởng tình báo Bộ CA Nguyễn Duy Linh và Phan Văn Anh Vũ vừa kết thúc một cách kỳ lạ, đầy dấu hiệu bất thường: khả năng bỏ lọt tội phạm đồng lõa …
Giọt nước tràn ly là sự kiện Video clip bữa tiệc “bò rắc muối, dát vàng” ở Anh quốc mà nhân vật chính là Tô Lâm bộ trưởng CA.
Mạng Xã Hội phần lớn cười chê, hả hê…
Tuy nhiên cũng không ít người cảm thấy đau xót. Họ cảm thấy lịch sử lặp lại khi nêu ra bài thơ “Vô Đề” của vua Thành Thái. Bài thơ với các tựa đề được gọi khác nhau: Cô khấp (Khóc một mình), Độc gian lao (Một thân gian khổ) và Vô Đề.
Bài thơ “Vô đề” của Vua Thành Thái
Phiên âm:
“Võ võ văn văn trước cẩm bào,
Trẫm vi thiên tử độc gian lao.
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết,
Sổ trản thanh trà bách tính cao.
Thiên lệ lạc như dân lệ lạc,
Ca thanh cao xướng khấp thanh cao.
Can qua thử hội vô bàn luận,
Ái nhĩ quần sinh phó nhĩ tào”.
Dịch nghĩa:
Không đề
“Quan võ quan văn xênh xang khoác áo gấm,
Trẫm là thiên tử mà một mình gian lao.
Ba chén rượu hoàng cung là máu của chúng dân,
Mấy chén trà xanh là cao xương của trăm họ.
Trời tuôn mưa như nước mắt dân chúng rơi,
Tiếng hát càng cao thì tiếng khóc càng cao.
Chuyện đánh giặc bây giờ không ai bàn luận nữa,
Lòng xót thương dân cũng phó mặc cho trẫm”.
Đôi lời phân tích
Chủ thể trữ tình của bài thơ bát cú là vua Thành Thái, trong giai đoạn nhà Nguyễn suy tàn, đang đánh mất vai trò chủ thể nước nhà. Về giai đoạn mâu thuẫn này, một cách khách quan nhận định rằng, do chính sách bảo thủ bế quan tỏa cảng từ chối canh tân, nhà Nguyễn không thể điều hòa mâu thuẫn với thực dân Pháp, ngoại giao bất cập, dẫn đến xung đột vũ trang. Số phận ba vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là bằng chứng sống của quan hệ đó.
Vua Thành Thái (1879-1954), tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Lân. Ngài là vị hoàng đế thứ 10 của triều Nguyễn, trị vị từ 1889 đến 1907. Ngài là một vị vua yêu nước, có tình thần dân tộc cao, cầu tiến, đã tham gia chống Pháp nên bị đày ra đảo Réunion ở Ấn Độ Dương là vùng đất thuộc Pháp. Bài thơ KHÔNG ĐỀ trích trong Thi ca miền Trung Việt Nam do Lưu Trọng Minh sưu tầm và biên soạn, NXB Giao thông Vận tải, 2004. Tương truyền bài thơ này nhà vua cảm tác khi dự lễ khánh thanh cầu Paul Doumer (cầu Long Biên) ở Hà Nội. Bài thơ thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ bến của nhà vua. Đồng thời, tác phẩm cũng phê phán quan lại đương thời, văn cũng như võ, chỉ biết xênh xang áo mũ, chỉ biết sống ích kỷ và hưởng thụ, mặc cho đất nước mất phương hướng, chính sự rối ren và dân chúng lao khổ.
Nhà văn Phạm Lưu Vũ trên trang Fb nhắc lại bài thơ này và mời bạn hữu địch thơ.
Cảm hứng đọc lại và dịch thơ vua Thành Thái chẳng phải là sự cảm thông với chủ tịch nước CHXHCNVN hay tâm sự Tổng bí thư. Bởi hai vị nguyên thủ quốc gia kia đã đồng nhất với đảng phái của họ, không hề tỏ ra đối lập.
Nhiều người nhận định rằng chế độ cộng sản là sự biến tướng, trá hình của chế độ phong kiến Việt Nam. Sự nhập nhằng là ở chỗ giao cho bí thư Đảng vai trò quyết định ngầm song vẫn lẫn lộn với chế độ lãnh đạo tập thể. Nếu đất nước thất bại thì “tập thể” chịu chung nhìn về hình thức. Cá nhân phụ trách sẽ được “bóc tách“ ra khỏi tập thể vô can. Thành ngữ cổ có câu “Con sâu trăm chân, gãy vài cái chân nó vẫn bò được”. Đó chính là thủ đoạn chính trị xảo quyệt của Khoa xây dựng đảng(!)
Trở lại bài thơ, chủ thể trữ tình của bài thơ là ai ?
Đó chính là Giới trí thức Việt Nam còn tinh thần dân tộc và yêu nước. Họ mượn bài thơ bi phẫn của vua Thành Thái để lấy chỗ giãi bày tâm trạng của mình.
Vĩnh An Lê góp bản dịch:
Khóc trong cô độc
Quan võ quan văn khoát cẩm bào
Để mình thiên tử chịu gian lao
Rượu tanh mùi máu người trăm họ
Trà đắng cao xương nghĩa sĩ nào
Tiếng xướng ca hay khóc tiếng ca
Trời tuôn mưa ngỡ lệ dâng trào
Ủ mưu đánh giặc không người luận
Xót chúng dân, mình Trẫm thế sao ?!
Xin góp thêm một bản dịch:
“Quan chức toàn khoe áo lượt là
Con trời đau bầm mắt vàng da
Muôn dân nhỏ máu tràn ly rượu
Trăm họ cạo xương sánh chén trà
Mưa như người khóc tuôn tuôn lệ
Vẳng tiếng gào oan khúc hoan ca
Vận nước nổi chìm không ai ngó
Xót dân thương nước mỗi mình ta”.
Xuân Tóc Trắng
Thân Khóc
Cả võ lẫn văn khoác gấm bào
Trẫm thân thiên tử vẫn gian lao
Trà xanh đắng nghẹn xương dân chúng
Nhấp chén rượu suông ngỡ máu đào
Mưa thu liền mạch muôn dòng lệ
Khốc thanh – tiếng nấc nhức nhối sao
Giang sơn dẫu đang vào tay giặc
Xác thân dân chúng trẫm lo sao !
Đặc biệt, nữ nhà thơ Giáng Vân góp bản dịch phóng khoáng như sau:
“Võ quan mặt trắng bệu
Kệ mẹ nước gian lao.
Rượu tây ông cứ đớp,
Máu từ dân húp đều.
Bòn trụi bọn khố rách,
Dát vàng hậu môn ông”.
…
Với gần 5 chục bản dịch, Dương Tử xin kết thúc với bản dịch phá cách của Giáng Vân gắn chặt với chuyện thời sự nóng hổi: bữa tiệc “bò dát vàng” ở trời Tây của một “nhà vua công an” trong Hội đồng Vua. Câu kết ý nói: ăn thịt bò dát vàng mỏng, thực khách về nhà sẽ đi vệ sinh ra vàng nguyên vẹn, hốt lên rửa sạch rồi đem ra tiệm kim hoàn.
Ngẫm bổi cảnh bài thơ vua Thành Thái giống như tình cảnh bây giờ. Tuy nhiên xưa còn có nhà vua biết xót cho dân, thương cho nước, còn bây giờ tệ hơn xưa nhiều. Ngày nay có cả một Hội Đồng Các Vua (vua tập thể) hỏi có ai nói và làm thể hiện lòng yêu nước như vua xưa ?
_______________
Chú thích:
Nguyên văn bài thơ Vô đề của vua Thành Thái
無題
武武文文著錦袍,
朕為天子獨艱勞。
三杯紅酒群黎血,
一盞青茶百姓膏。
民淚落何予淚落,
歌聲高也哭聲高。
休談此潰干戈靜,
禍福將來付爾曹
1 comment
Năm 1947 vua Thành Thái về nước (sau 40 năm lưu đày)đã xác nhận bài thơ này không phải của ông làm.Bài thơ trên là của Hoàng Cao Khải,Kinh lược sứ Bắc Kỳ.