Việt Nam Thời Báo

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (Phần 3)

Văn Nguyên Dưỡng 

 

[ads_custom_box title=”Lời toà soạn” color_border=”#050ce8″]

Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Dưỡng hiện sống tại Hawaii, nguyên trưởng phòng 2 ( Phòng Tình Báo) bộ tư lệnh sư đoàn 5 BB. Người tham dự trận chiến An Lộc từ bắt đầu đến kết thúc. Trong bài viết của ông dưới dây có thể có một vài chi tiết khá nhạy cảm với một vài người.

[/ads_custom_box]

 

3. TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH

Ch một thời gian làm việc với Đi tá Lê văn Hưng, tôi hiểu rõ kh năng ca ông hơn và thành thực khen ngợi ông là người chí công vô tư. Về kh năng, tôi có thể nói ông quyết đoán chính xác và nhanh chóng. Tôi s đề cập đến sau. Trước tiên, xin nói về bn tính và cách cư xử ca ông đối với mi người. Ông rất thẳng thắn, cương ngh, nhưng là người mang trong lòng thứ tình cm đậm đà –với hai thí d điển hình là sự đối xử ca ông với Trung tá Lê Th Trung và với tôi.

Nhìn dáng dấp bên ngoài, thuộc cấp có thể ngh ông là người khó đến gần hoặc nghiêm khắc, vì tướng người cao, rắn ri, nghiêm ngh, nhất là ít nói. K thực ông rất thương yêu binh s, h s quan và s quan cấp úy. Ông chn rất k h s quan và s quan cấp thiếu úy và trung úy để đặt vào các chức v Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng và Đi đội trưởng. Ở cấp Tiu đoàn trưởng, ông thường chn những Đi úy hay Thiếu tá tr dày dn trận mc, can trường, đánh trận hay và nhất là biết suy ngh, lo lắng và thương yêu binh s. Ông thường nói với tôi rằng các cấp ch huy này biết thương yêu, lo lắng cho binh s thì mình s đỡ lo hơn và an tâm hơn. Vì vậy ông t ra thân mật với cấp ch huy ở cấp tiểu, trung, Đi đội, và các Tiu đoàn. Đôi khi ông nhớ rõ tên một h s quan Tiểu đội trưởng hay Trung đội trưởng ca một Đi đội hay Tiu đoàn nào đó mà tôi ngh là ít v tư lệnh Sư đoàn nào để ý đến. Tuy nhiên ở cấp Trung đoàn trưởng, Tư lệnh Sư đoàn không quyết đnh được, thường là do Tư lệnh Quân đoàn hoặc cấp cao hơn bổ nhậm.

SĐ5BB có 3 Trung đoàn Bộ binh 7, 8, và 9, Thiết đoàn 1 K binh, 4 Tiu đoàn Pháo binh gồm Tiu đoàn 50 đi bác 155 ly, các Tiu đoàn 51, 52, và 53 đi bác 105 ly. Ngoài ra còn các Tiu đoàn chuyên biệt khác như Công binh, Truyền tin, Tiếp vận và Quân y. Tổng cộng quân số trên 11,000 người. Trung đoàn 7 Bộ binh do Trung tá Lý Đức Quân ch huy (sau đó thăng Đi tá và tử trận thăng cố Chuẩn tướng). Ông Quân gốc dân tộc Nùng cng như đi đa số s quan, h s quan và binh s đều thuộc sắc tộc này từ khi được thành lập với danh hiệu là Sư đoàn 4 Dã chiến. Sau chuyển thành SĐ5BB. Dần dà khi QLVNCH phát triển thì số binh s sắc tộc Nùng gần như hoàn toàn tập trung vào Trung đoàn 7. Trung tá Quân là một s quan mẫu mực, đo đức, kh năng và kinh nghiệm tác chiến cao nên Đi tá Hưng rất hài lòng. Trung đoàn 8 Bộ binh được Tướng Minh giao cho Trung tá Mch văn Trường ch huy (Ông Trường xuất thân Khóa 12 Võ b Đà Lt. Khi tốt nghiệp, toàn khóa được đưa sang một Trường Bộ binh Hoa K để hc ch huy cấp Đi đội bộ binh. Nhưng chính bn thân ông chưa hề ch huy một Đi đội bộ binh trong QLVNCH, mà là một s quan Quân Báo. Làm Trung đoàn trưởng ngha là s thăng cấp Đi tá). Biết Trung tá MVT chưa từng cầm quân nên Tướng Hưng đưa Thiếu tá Hunh văn Tâm là một s quan rất tr nhưng đã từng là Tiu đoàn trưởng cừ khôi, làm Trung đoàn phó. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9 là Đi tá Nguyễn Công Vnh, lớn tuổi, ốm yếu, mà lần đầu gặp li sau nhiều năm, tôi tự ngh là ông nên xin về làm việc ở một nha sở nào ở Trung ương hơn là đi đánh giặc. Tuy nhiên dưới quyền ông có hai s quan lỗi lc là Thiếu tá Trần Đăng Khoa Trung đoàn phó và Thiếu tá Võ Trung Thứ, Tiu đoàn trưởng Tiu đoàn 1/9, xuất thân Th khoa Khóa 15 Võ b Đà Lt. Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 K binh là Trung tá Nguyễn Đức Dương.

Đầu tháng 3, 1972 nhân ngày k niệm thành lập Sư đoàn, Đi tá Lê văn Hưng thăng Chuẩn tướng nhiệm chức và Trung tá Mch văn Trường, với chức v Trung đoàn trưởng, cng thăng Đi tá nhiệm chức. Người b Tướng Nguyễn văn Minh b quên, không đề ngh thăng cấp, là Trung tá Lê Th Trung, Tham mưu trưởng Sư đoàn, rất thâm niên trong cấp bậc.

Đối với các s quan cấp tá thì Tướng Hưng rất nghiêm minh, nhất là các s quan tham mưu. Đó là lý do ti sao Đi tá Lê Nguyên V, Tư lệnh phó Sư đoàn và các s quan cấp tá khác thường b ông Hưng “nt” khá nhiều lần ngay trong các buổi hp ở Trung tâm Hành quân. Và một buổi chiều, sau khi ông V. b nự, không nhớ lần thứ mấy, hết buổi hp, tôi theo Tướng Hưng vào văn phòng tư lệnh. Lúc ông đang chưa hết cơn giận, thấy tôi bước vào, ông ngc nhiên nhưng không nói gì thì chính tôi nói: “Xin… cho tôi được trình bày.” Tướng Hưng chưa kp nói gì thì tôi đã tiếp. “Tôi ngh là anh xử sự quá đáng với Đi tá V. Ông ta cứ b “nự” hoài, làm sao chu nổi. Đi tá V., hay chúng tôi cấp trưởng phòng, đều có trách nhiệm trình bày ý kiến ca mình, dù đúng hay sai…. B nự hoài ai dám nói nữa… nhất là trước mặt thuộc cấp.” Tướng Hưng nổi cáu, lớn tiếng: “Không phi việc ca mày!” Tôi nói một câu trước khi chào và bước ra: “Xin lỗi Thiếu tướng, nếu không phi thì… tôi đi.” Đó là lần đầu tiên và cuối cùng Tướng Hưng gi tôi bằng “mày”, mà tôi ngh là xuất phát từ thâm tâm ông coi tôi là một bn đồng khóa ngày xưa hơn là một thuộc cấp. Từ đó chữ này biến mất. Và chắc chắn ông hiểu rõ chữ “Thiếu tướng” mà tôi dùng trong buổi chiều đó là mang theo sự bất bình ca tôi. Thường nhật trước mặt mi người tôi gi ông là Thiếu tướng, vào những lúc khác ch riêng có hai người, hoặc trước mặt vợ ông, tôi gi là “anh”, vì ông Hưng lớn hơn tôi. Ông sinh tháng 3, năm 1933. Tôi sinh tháng 1, năm 1934, mặc dù cùng năm Quí Dậu. Ông thường gi tôi bằng tên: “Dưỡng à”, hoặc “này Dưỡng”, không thêm một chữ nào nữa. Không “toi”, không “cậu”, không “mày”….

Sáng hôm sau, tôi tt qua văn phòng Tham mưu trưởng, np lá đơn xin thuyên chuyển, trước khi ra sân bay trực thăng chờ tháp tùng Tướng Hưng đi thăm các đơn v. Khi bước xuống xe jeep, trước khi lên trực thăng ch huy ca mình, Tướng Hưng bắt tay Trung tá Trnh Đình Đăng, Trưởng Phòng 3, và tôi. Đến khi bắt tay tôi, ông Hưng cười, không nói gì. Buổi trưa, trở về Lai Khê, khong chừng 2 giờ chiều Trung tá Trung, Tham Mưu Trưởng, gi tôi lên văn phòng cho biết là ông đã gặp Tướng Hưng về việc ca tôi và lập li lời Tướng Hưng nói với ông: “Dưỡng nó làm nư, b lá đơn đi.” Tôi thực tình không làm nư với ông Hưng, mà đnh xin thuyên chuyển thật. Tôi cng không ngượng ngùng gì khi gặp ông buổi chiều trước giờ hp. Tuy nhiên mấy ngày sau, Tướng Hưng khi gặp riêng tôi, nói rằng Đi tá Lê Nguyên V và ông không hợp tính với nhau. Ch một tuần sau Tướng Nguyễn văn Minh điều Đi tá V. về làm Ph tá Hành quân ở Bộ Tư lệnh QĐIII & V3CT. Chức v Tư lệnh phó SĐ5BB không có người thay thế. Có một đi tá khác thuyên chuyển về Sư đoàn là Đi tá Bùi Đức Điềm, nguyên Tnh trưởng Long Khánh, Tướng Minh không tín nhiệm, bãi chức. Khi về Sư đoàn Đi tá Điềm cng ch giữ chức Tham mưu trưởng Hành quân mà không phi là tư lệnh phó hay ph tá hành quân cho Tướng Hưng. Ông Điềm là một đi tá k cựu, người có công rất lớn trong cuộc chiến An Lộc diễn ra một tháng sau đó. Ông ta b b quên như một gốc cổ th già cằn cỗi trong một xó rừng nào đó ca Bình Long. Mãi đến gần cuối năm 1972 Sư đoàn mới có v tư lệnh phó là Đi tá Nguyễn Bá Long, tự Thìn, nguyên Tnh trưởng Kontum, và là người có công rất lớn trong việc giữ vững thành phố tnh l này; ở đó hình như cng có… bất công diễn ra liên quan đến v đi tá này.

Tôi s nói riêng về những sự bất công ca cuộc chiến An Lộc đúng như sự thực, khác hơn nhiều người viết thêm bớt, dù tôi biết là những gì tôi đề cập đến s làm nhiều người không hài lòng và s đem đến cho tôi những ̣điều không tốt lành nào đó. Tôi chấp nhận, khi tôi nói sự thực, và ch là sự thực, trước đây có rất nhiều người biết mà không thể nói. Tôi cng muốn quên đi từ hơn mấy chc năm qua. Nhưng không thể quên được. Nhiều lần tôi tự hi phi chăng hào quang ca những v anh hùng trong QLVNCH đã b số ít người lãnh đo bất xứng với những vầng mây u ám, nhưng quá to lớn ca h, che lấp mất rồi chăng? Tôi đã đắn đo nhiều lắm. Tôi đã câm nín quá lâu khi không nói nỗi oan mà Tướng Hưng hay Đi tá Bùi Đức Điềm, hoặc ai đó nữa, b trù dập bởi thượng cấp. Đến nay một vài v còn b những người ngoi cuộc, không hiểu tường tận, bôi biếm. Nay ngh li, nếu tôi biết mà không nói thì ai s nói…. Tôi là chứng nhân, là người trong cuộc, dù sự hiểu biết ca tôi ch cho phép tôi nói lên những gì ít nhất và lễ độ nhất. Hôm nay, tôi viết vì những người còn sống nhất là hai cháu Hi và Hà, con ca Tướng Hưng, lúc đó mới ch là hai đứa tr thơ đã mồ côi cha. Nay đã lớn, các cháu cần biết rõ hơn về cuộc đời nhiều sóng gió và khổ tâm ca người cha anh hùng ca các cháu. Tôi cng viết gửi về ch Hưng, PKH, hiện cư ng ở đâu đó trên đất nước Hoa K, là tôi hãnh diện có những thời k sống và chu nhiều gian khổ, hiểm nguy, với một v Thần mà lúc đó chúng tôi không hề biết. Thần và người ch khác nhau ở mực thước làm người. Những con người tham quyền, cố v, vinh quang thì muốn hưởng, khi hiểm nguy thì tránh né, vận nước đo điên thì trốn chy, buông quân, b cờ, dù là tướng, thì cng ch là những con người tầm thường như mi người tầm thường khác. Tướng mà coi mng sống ca bn thân và ca gia đình mình quá nặng thì làm sao có thể thành anh hùng hay thành Thần được. Còn làm Tướng mang sinh mệnh đền ơn tổ quốc, chết theo thành, thì thiên cổ đã ghi “Sinh vi Tướng, tử vi Thần.” Lch sử Việt Nam còn đó, gương kim cổ mãi mãi s còn được ri soi. Năm v tướng lãnh ca miền Nam Việt Nam tuẫn tiết trong ngày cuối “Tháng Tư Đen” s lưu danh thiên cổ.


 

Tin bài liên quan:

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (phần 13)

Trương Thế Tử

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (Phần 1)

Phan Thanh Hung

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (phần 12)

Trương Thế Tử

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.