Chính vì những quy định pháp lý về mua bán doanh nghiệp đang trong quá trình hoàn thiện, vẫn còn nhiều khe hở, nên những hoạt động mua bán không minh bạch cùng tâm lý “cả tin” của nhiều doanh nhân Việt sẽ khiến nhiều doanh nghiệp Việt mất trắng.
Gần đây, giới kinh doanh trên thị trường bia quốc tế xôn xao quanh câu chuyện Heineken (Hà Lan) mua lại hãng bia châu Á – Thái Bình Dương (APB); trong đó, có nhãn hàng Tiger bia vốn rất được ưa chuộng tại thị trường châu Á.
Các doanh nghiệp cảm thấy “lo lắng” khi Uni-President Việt Nam sở hữu 100% vốn nước ngoài đã thản nhiên “đứng nhìn” để Tribeco Sài Gòn phá sản, sau đó triển khai kế hoạch mua lại Tribeco.
Điều tương tự cũng xảy ra khi Tập đoàn Lotte Hàn Quốc đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam, khiến thị trường bánh kẹo, hệ thống bán lẻ… của các doanh nghiệp cùng ngành tại Việt Nam “chao đảo”; trong đó có cả doanh nghiệp hàng đầu như Bibica.
Những cảnh báo đáng lo ngại
Từ khi Việt Nam mới gia nhập WTO, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thường ngạc nhiên bởi thái độ “phòng thủ” có chuẩn bị từ các doanh nghiệp nội địa.
Những dự báo về thời cơ và thách thức theo kiểu “con dao hai lưỡi” khi bước vào WTO khiến các doanh nghiệp Việt ra sức liên kết, chuẩn bị tư thế lẫn sức mạnh “sân nhà” để đối mặt và dè chừng với các doanh nghiệp ngoại. Thêm vào đó, lộ trình hội nhập WTO giai đoạn đầu còn khá thuận lợi cho doanh nghiệp Việt khi chính sách thuế, hải quan… chưa được nới lỏng hết mức.
Bên cạnh đó, sự dè dặt của doanh nghiệp ngoại do chính sách thu hút đầu tư của nhà nước chưa hấp dẫn, hạ tầng chưa phát triển cùng sự giao thoa chưa mạnh của văn hóa doanh nghiệp… đã tạo nên những lợi thế rõ rệt cho doanh nghiệp Việt.
Cụ thể, năm 2007 cộng đồng doanh nghiệp chứng kiến Lotte Hàn Quốc lâm vào thế bí khi tham vọng mua lại Bibica Việt Nam không thành công do sự gắn kết chiều dọc lẫn chiều ngang của doanh nghiệp nội địa Việt Nam.
Tuy nhiên, giai đoạn 2010 đến nay, cùng với những “dư chấn” của khủng hoảng kinh tế thế giới và bất ổn từ trong nước, các doanh nghiệp Việt đã rơi vào hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều.
Những doanh nghệp nước ngoài với lợi thế nguồn vốn mạnh, sự thấu hiểu và quen thuộc môi trường kinh doanh Việt Nam, cộng với những nghiên cứu định lượng đầy bài bản nhằm đo lường sức mạnh các doanh nghiệp Việt đã giúp họ như “hổ thêm cánh”. Đây là một dấu hiệu cảnh báo về làn sóng mua lại doanh nghiệp Việt ngày càng trở nên rõ ràng và đáng lo ngại.
Một thực tế rất phũ phàng cho thấy sự bám chặt nhằm thực hiện bằng được ý đồ là trường hợp của Lotte Hàn Quốc. Ngay khi có cơ hội “bá chủ” thị trường bánh kẹo thì các đối tác Lotte Hàn Quốc đã rất quyết liệt đề xuất đổi tên công ty cổ phần (CP) Bibica thành công ty CP Lotte – Bibica.
Tháng 4/2013, khách sạn 5 sao nằm đối diện sông Sài Gòn (TP.HCM) đã chính thức được đổi tên thành Lotte Legend Saigon. Đây là kết quả của việc Lotte (Hàn Quốc) mua lại 70% cổ phần của Tập đoàn Kotobuki. Giá trị thương vụ không được tiết lộ, nhưng cái tên Lottte đã thực sự “bành trướng” ở thị trường Việt Nam.
Cũng cần phải nhắc lại rằng, vào giai đoạn đầu Việt Nam thu hút FDI, cũng đã có những trường hợp thâu tóm tương tự. Ban đầu, khi các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam, Chính phủ chỉ cho phép họ lập liên doanh, vì sợ họ thâu tóm hết doanh nghiệp trong nước. Nhưng cuối cùng, khá nhiều doanh nghiệp nội đã bị hạ “knock-out”, buộc phải ra khỏi liên doanh.
Câu chuyện của Coca-Cola có thể coi là một minh chứng khá rõ nét. Ban đầu, khi vào Việt Nam, công ty này đã phải liên doanh với một số công ty trong nước, nhưng sau một thời gian hoạt động, liên tục thua lỗ, khiến các đối tác Việt Nam “chịu không thấu”, phải lần lượt rút khỏi liên doanh. Coca-Cola trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Một số liên doanh khác như Lever-Viso, Lever-Haso hay P&G với bột giặt Phương Đông… cũng đều kết thúc theo hướng thôn tính và doanh nghiệp Việt Nam đều phải chấp nhận sự thua thiệt.
Ở một dẫn chứng khác, thay vì hỗ trợ tài chính nằm tái cấu trúc sản xuất cho đối tác Việt Nam trong giai đoạn khó khăn thì Uni-President chấp nhận “đứng nhìn” cho đối tác phá sản, sau đó đường đường chính chính đề xuất mua lại Tribeco mà không thèm đến tất cả hệ lụy sau thương vụ M&A của họ như: vốn tái cơ cấu, tái đầu tư, chi phí sa thải công nhân để làm nhẹ bộ máy sản xuất cho công ty cũ.
Câu chuyện về công ty bảo hiểm nhân thọ của Bảo Minh CMG bị mua lại bởi công ty Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi của Nhật Bản khá lâu trước đây cũng có thể được coi là một “bài học kinh điển” mà doanh nghiệp Việt nên lấy đó làm điển hình nghiên cứu và tham khảo.
Sức hút thâu tóm doanh nghiệp Việt
Chúng ta có thể thấy lý do đầu tiên khiến những thương hiệu Việt có nguy cơ bị thôn tính là, khi doanh nghiệp Việt lâm vào thế yếu kém và khó có khả năng chống chọi với kinh tế thị trường hoặc doanh nghiệp tuyên bố phá sản sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp cùng ngành mạnh vốn mua lại để khai thác tiếp những tiềm năng mà doanh nghiệp cũ không có khả năng chạm tới. Hay mạnh tay hơn là triệt tiêu tên tuổi để bắt đầu cho một thương hiệu mới.
Lý do thứ hai chính là sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ cùng khu vực châu Âu khiến các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt tràn vào thị trường khu vực châu Á; trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh khủng hoảng leo thang và chưa có dấu hiệu phục hồi, các nhà đầu tư thông minh sẽ “chuyển hướng” sang các nước thuộc thế giới thứ 3 nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Vấn đề rất đáng quan tâm là trên thực tế tại sao nhiều doanh nghiệp ngoại chọn Việt Nam làm điểm đến? Chúng ta có thể thấy có những nguyên nhân cơ bản như Việt Nam so với nhiều nước khác trong khối Asean, rộng hơn là khu vực châu Á có tiềm năng kinh tế cao, chưa được khai thác.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước nhìn chung còn non yếu, chưa có nhiều kinh nghiệm trong thị trường hội nhập. Sau một thời gian không quá ngắn sau gia nhập WTO, hiện cấu trúc hệ thống kinh doanh, các chính sách chiến lược phát triển công ty, định hướng tầm nhìn của doanh nghiệp Việt bắt đầu bước vào giai đoạn tiền khủng hoảng.
Cùng với đó, nền kinh tế Việt Nam đang khó khăn và bước vào giai đoạn tái cơ cấu để thoát khỏi khó khăn. Thế nhưng, rất nhiều các doanh nghiệp trong số hơn 400.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp hàng tiêu dùng và các ngân hàng thương mại, đang có tỷ lệ nợ rất cao. Điều đó đồng nghĩa các doanh nghiệp cần tiền không chỉ để thanh toán nợ mà còn cho cả khâu tái cơ cấu đầu tư trong bối cảnh nguồn vốn khá cao so với các nước khu vực khác.
Một khi lạm phát tăng nhanh, giá cả đắt đỏ sẽ là liều thuốc độc giết chết sự chịu đựng của các doanh nghiệp. Trong khi đó, những “đại gia” nước ngoài có tiền, có chiến lược và tầm nhìn phát triển dài hạn, có kinh nghiệm trong việc xử lý những khó khăn khủng hoảng… Ước tính, chỉ cần 5 đến 10 triệu USD thì doanh nghiệp nước ngoài có thể đầu tư vào phân khúc thị trường doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thế nên, trong khi nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt và dần tháo gỡ những vấn đề như: tiền tệ, tín dụng, bất động sản, chứng khoán… thì trái lại, thị trường mua bán, sát nhập giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước diễn ra sôi nổi. Thêm nữa, nguồn lực lao động trẻ và chính sách nhà nước trong việc thu hút đầu tư vốn nước ngoài như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, các nghị định hướng dẫn đầu tư… đang là những điều kiện thuận lợi và hoàn chỉnh nhất đối với hoạt động của lĩnh vực M&A.
Việt Nam là “điểm đến lý tưởng” hơn cả Malaysia, Indonesia để doanh nghiệp nước ngoài triển khai hoạt động M&A. Cộng với ưu điểm “huy động vốn” hiệu quả, M&A trở nên sôi động và tỏ ra thịnh vượng bất chấp những khó khăn khác của nền kinh tế.
Nhiều ý kiến bày tỏ ủng hộ cho việc mua lại và sát nhập công ty, bởi đó là cứu cánh cho doanh nghiệp thời khủng hoảng mà trước hết là giải quyết 3 vấn đề lớn: vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý khủng hoảng. Tuy nhiên, đằng sau đó là những hạn chế mà xét về lâu dài, Việt Nam nhất thiết không được bỏ qua.
Thực tế thời gian qua có những thương vụ mua bán sáp nhập khá đình đám nhưng hiệu quả như thế nào chưa ai biết được. Tất cả dường như còn quá mới mẻ và phải chờ xem hiệu quả ra sao, điều này đặt ra sự so sánh giữa “làm” và “hiệu quả”. Chưa có những phân xét, mổ xẻ cụ thể lợi hại phía sau những vụ mua bán doanh nghiệp để từ đó định hướng phát triển chung cho nền kinh tế.
Với cổ phần đa số hoặc tuyệt đối, các doanh nghiệp nước ngoài tỏ ra lấn lướt và ảnh hưởng mạnh đến các công ty nội địa; trong đó có cả những yếu tố mang tính văn hóa công ty. Trong dài hạn, các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài khó có thể tạo nên bản sắc riêng cho doanh nghiệp, trái lại phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp ngoại.
ThS. Vũ Xuân Trường (Giảng viên Khoa Thương hiệu, Trường Đại học Thương Mại)
Theo báo Tin Tức