Nguyễn Minh Quang, The Diplomat, ngày 08/02/2017
Vũ Quốc Ngữ dịch
Tết nguyên đán Đinh Dậu đã kết thúc, đánh dấu sự bắt đầu của một mùa khô mới ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam. Ngay bây giờ tại các tỉnh ven biển quanh đồng bằng này, hàng ngàn nông dân, đặc biệt là những người phải chịu đựng hạn hán lịch sử năm ngoái, được huy động để đối phó một đợt hạn hán tàn phá tương tự dự báo sẽ đến ở đồng bằng trong một vài tuần.
Trong mùa khô năm ngoái, Việt Nam chịu hạn hán kỷ lục, tiếp theo là nước mặn xâm nhập, gây thiệt hại kinh tế cho cả nước khoảng 15 nghìn tỷ đồng (669 triệu USD), chủ yếu là thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Nó cũng gây ra những tác động kinh tế và xã hội khác: gần nửa triệu hộ gia đình thiếu nước ngọt và lương thực và hàng ngàn người bị ảnh hưởng phải di cư đến các đô thị trong tìm kiếm việc làm. Hạn hán gây ra chủ yếu là do các con đập ở thượng nguồn sông Mê kong được xây dựng bởi Trung Quốc cộng với ảnh hưởng của El Nino.
Để giảm thiểu thiệt hại nông nghiệp gây ra bởi một sự lặp lại có thể có của các thảm họa kép năm 2016 – hạn hán trầm trọng và xâm nhập mặn trong đất liền, bị trầm trọng thêm bởi các con đập của Trung Quốc – hầu hết các tỉnh dễ bị thảm họa ở đồng bằng này đã bắt đầu việc tích trữ nước ngọt bằng mọi biện pháp có sẵn. Ở nhiều xã dễ bị tổn thương ở Hậu Giang, Bến Tre và Tiền Giang, nông dân đã sử dụng bể chứa nước để thu thập nước mưa và khoan giếng để lấy nước ngầm. Họ cũng đã làm giảm diện tích trồng lúa và chuyển sang trồng những loại cây cần ít nước hơn. Trong khi đó, chính quyền địa phương đã tổ chức nạo vét kênh mương và công trình thủy lợi và thiết lập mạng lưới đường ống dẫn nước ngọt ở các điểm nóng của hạn hán. Ngoài ra, một số đập tạm và nhà máy khử muối đang được xây dựng một cách vội vàng xung quanh đồng bằng sông để ngăn chặn nước mặn xâm nhập theo các đường thủy chủ yếu.
Tuy nhiên, nhiều nông dân và người hoạt động môi trường địa phương vẫn còn lo lắng về tương lai của đồng bằng. “Đây chưa phải là những biện pháp cần thiết để giảm nhẹ”, một nhà môi trường tại Đại học Cần Thơ yêu cầu giấu tên cho biết. “Hạn hán cấp tính giống như những gì xảy ra năm ngoái sẽ xảy ra thường xuyên hơn trong tương lai vì hệ sinh thái của khu vực này đã bị phá vỡ bởi sự phát triển không bền vững và các con đập thủy điện của Trung Quốc, gây ảnh hưởng đến tất cả mọi thứ từ mực nước đến nhiệt độ nước tới việc di cư của cá và sự vận chuyển phù sa.”
Các nhà hoạt động môi trường và những người hoạt động khác quan ngại sâu sắc rằng nếu Trung Quốc vẫn còn chậm chạp và miễn cưỡng để tháo nước trong suốt thời gian khi nước sông ở mức thấp, giống như nó đã làm năm ngoái, nông nghiệp ở hạ nguồn sông Cửu Long sẽ bị nguy hiểm, do đó một lần nữa tạo ra rủi ro môi trường cho toàn bộ lưu vực sông.
Ngoài ra, các con đập của Trung Quốc trên thượng nguồn sông Mekong cũng giữ lại 80% lượng phù sa. Phù sa sông Mekong là nguồn dinh dưỡng quan trọng cho đồng bằng, vì nó giúp bổ sung chất dinh dưỡng. Như vậy, mặc dù các nhà chức trách và dân chúng ở ĐBSCL có thể bảo đảm nước ngọt cho mùa khô, việc không có nước từ thượng nguồn và phù sa thì đồng bằng này có thể không thoát khỏi sự xói mòn và tan rã, mà có nhiều khả năng đến sớm hơn so với dự đoán trong các kịch bản nước biển dâng gần đây ở Việt Nam.
Những tác động của các đập của Trung Quốc đã trở thành rõ ràng hơn và không thể chối cãi trong đợt hạn hán năm ngoái đã hủy hoại vùng nông nghiệp màu mỡ ở hạ lưu sông Mê Công. Tóm lại, Trung Quốc đã có một phần trách nhiệm cho tình trạng thảm khốc trong khu vực. Tuy nhiên, như tôi đã lập luận trong một bài viết ở The Diplomat trước đó, phản ứng của Bắc Kinh đối với vấn đề này vẫn còn gây nhiều tranh cãi và khác với những gì các nhà lãnh đạo của nước này đã lớn tiếng cam kết trong các diễn đàn hợp tác khu vực và song phương. Với thực tế này, nông dân ĐBSCL vẫn bi quan và khắc kỷ vì không biết bao lâu nữa họ có thể kiếm sống từ nông nghiệp.
“Lo lắng hay không lo lắng, không có khác nhau và không quan trọng bởi vì chúng ta không có tiếng nói,” Lâm Ngọc Tiến, một nông dân 32 tuổi người dân tộc Khmer ở huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, nơi hậu quả của hạn hán năm 2016 của vẫn còn rõ ràng. “Chúng tôi không thể kiểm soát sự thay đổi khí hậu với thời tiết nóng hơn và việc không ngừng xây dựng đập của các nước thượng nguồn. Và khi tác động của chúng đến với chúng tôi cùng một lúc, đó là một cơn ác mộng thực sự đối với nông dân ở vùng thấp như chúng ta đang bị buộc phải chịu “, ông nói thêm.
Có một vài tuần nữa cho mọi người ở ĐBSCL để sẵn sàng và chuẩn bị đối phó với một mùa khô hạn mới. Nhìn lại những diễn biến gần đây và sự cố ở ĐBSCL để làm sáng tỏ một số bài học lâu dài cho chính phủ và nhân dân Việt Nam trong cách tiếp cận của họ để đối phó với sự thay đổi khí hậu trong khu vực có sự đa dạng sinh học nhưng dễ bị tổn thương. Chúng tôi hy vọng những biện pháp này sẽ giúp họ tránh được một thảm họa kép giống như năm ngoái, và chúng tôi chờ đợi để xem phản ứng có trách nhiệm hơn từ Trung Quốc để giảm bớt thiệt hại gây ra bởi dòng chảy suy giảm.
Bài học thứ nhất: Chính sách “Tăng trưởng trước tiên” ở các thập kỷ trước đồng nghĩa với phá hoại môi trường không thể khắc phục
Từ khi thành lập khu công nghiệp đầu tiên tại thành phố Cần Thơ khoảng 20 năm trước đây, tất cả các tỉnh ở ĐBSCL giàu tiềm năng nông nghiệp đã thi nhau phát triển các khu công nghiệp và mời gọi đầu tư nước ngoài, gây ra một “cuộc đua công nghiệp dai dẳng “trong khu vực. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chính quyền nhiều tỉnh đã quyết liệt thu hồi đất nông nghiệp màu mỡ cho các dự án phát triển tư nhân. Theo một báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chính quyền các tỉnh ở ĐBSCL đã ồ ạt thành lập 74 khu công nghiệp và 214 cụm công nghiệp với tổng diện tích khoảng 42.000 ha – hầu hết là những vùng đất trù phú cạnh các con sông. Nhiều làng nổi tiếng với các loại trái cây đặc sản của họ như bưởi da xanh và bưởi tép đỏ, cam vua, sầu riêng, vú sữa và gạo thơm ở Long An, Đồng Tháp, Hậu Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ đã bị công nghiệp hóa mà không cần cân nhắc cẩn thận về an ninh lương thực và tác động môi trường.
Hàng trăm ngàn nông dân ở các làng bị công nghiệp hóa đã từ bỏ đất đai của tổ tiên mình, là cả tài sản và phương tiện sản xuất chính của họ, và chuyển đến định cư tại khu vực đô thị hoá. Một số các hộ gia đình đột nhiên trở thành giàu có nhờ tiền bồi thường nhiều triệu đồng cho các cánh đồng của họ, nhưng vì không có sự chuẩn bị cần thiết và khả năng cho một cuộc sống mới, họ sớm tiêu hết số tiền và quay trở lại nghèo đói, làm việc như lao động phổ thông tại các nhà máy được dựng lên ngay trên đất cũ của họ.
Trớ trêu hơn, chỉ một phần nhỏ trong số hơn 40.000 ha nêu trên đã được công nghiệp hóa, nhưng ngay lập tức những vài dự án mang lợi nhuận cao cho nhà đầu tư trở thành nơi phát thải ô nhiễm gây rất nhiều tác hại đến môi trường và hệ sinh thái địa phương. Trong khi đó, phần lớn diện tích đất bị thu hồi vẫn chưa được sử dụng cho đến nay hoặc do nhà đầu tư nước ngoài quyết định rút lui khỏi hợp đồng hoặc dự án nhiều tỷ đô la trở thành không thực tế, gây lãng phí lớn và thiệt hại nông nghiệp năm này qua năm khác do đất nằm trống. Cuối cùng, những gì còn lại là những cánh đồng cỏ phát triển thành rừng và nhà máy gây ô nhiễm rải rác giống như ngôi mộ trên khắp vùng đồng bằng. Tình trạng này tiếp tục góp phần vào sự suy thoái môi trường của ĐBSCL, nâng cao nhiệt độ ở đây và thu hẹp diện tích che phủ rừng và mật độ vườn của nông dân. Những khu rừng đang suy giảm và vườn cây ăn quả đóng một vai trò quan trọng trong giảm thiểu các mối nguy hiểm về khí hậu như nắng nóng, hạn hán và lũ lụt cho tới khi họ còn có thể bắt giữ và lưu trữ một khối lượng lớn nước trong mùa mưa ngầm bên dưới mực nước ngầm.
Bài học thứ 2: Trời chỉ giúp những ai có thể tự giúp chính mình
Trong khi những người nông dân xung quanh ĐBSCL đang phải vật lộn để đối phó với các điều kiện khắc nghiệt thời tiết, nông dân ở cù lao Giêng, một hòn đảo nhỏ trên sông Cửu Long của Việt Nam – một khu vực dễ bị thiên tai nằm gần biên giới Việt Nam-Campuchia – đã ăn mừng một Tết lớn sau một năm tốt đẹp trong năm 2016.
Nhiều thế hệ qua, nông dân trồng lúa ở cù lao Giêng hoàn toàn dựa vào nguồn nước ở sông Mekong để tưới cây. Nhưng kể từ khi bị đe dọa bởi các tác động của biến đổi khí hậu và đập trên dòng chính Mekong, thay vì ngồi khóc than về sự thay đổi môi trường, nông dân của hòn đảo đã chủ động chuyển sang trồng xoài cao sản mà họ đặt tên là xoài ba màu do da xoài thay đổi từ màu xanh sang màu tím đỏ khi nó chín. Nông dân Nguyễn Hoàng Du, những người tiên phong nhập khẩu hạt giống và phổ biến rộng rãi loại xoài ở các xã trên cù lao, tóm tắt ý tưởng và đóng góp một cách ngắn gọn trong một giọng nói to lớn của mình: “Nhiều nông dân ở đây bây giờ trở thành triệu phú nhờ xoài.” Ông nói thêm rằng dân làng không còn lo lắng về thời tiết thay đổi hay việc giảm lưu lượng nước thượng nguồn.
Du là một trong số hàng chục nông dân ở cù lao là những người đã thoát khỏi đói nghèo kể từ khi họ quyết định để thoát khỏi trồng trọt truyền thống của họ và chuyển sang trồng xoài ba màu năm năm trước đây như là cách riêng của họ để đối phó với sự thay đổi môi trường. Cùng với thu nhập hàng trăm triệu đồng từ thu hoạch xoài quanh năm, người dân đảo đang được hưởng lợi từ thu nhập du lịch đáng chú ý kể từ vườn của họ đang trở thành điểm nóng du lịch sinh thái tại tỉnh biên giới An Giang. “Những thành tựu rất ấn tượng và ý nghĩa để giảm tỷ lệ đói nghèo của xã”, Huỳnh Văn Cường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã cho biết. Ông thông báo cho các phương tiện truyền thông địa phương rằng cơ quan nhà nước tỉnh đã hỗ trợ mô hình nông nghiệp thích ứng với khí hậu này bằng cách cung cấp hỗ trợ tài chính đồng nhiều triệu để giúp xoài của nông dân đáp ứng các tiêu chuẩn Thực hành nông nghiệp quốc gia (VietGap).
Nỗ lực lâu dài của nông dân đảo ‘để chiến thắng nghịch cảnh cuối cùng đã được đền đáp. Cách họ làm đơn giản nhưng kỳ diệu vượt qua những rào cản về môi trường mà toàn bộ ĐBSCL đang đối mặt nhắc nhở chính phủ và người dân ở những nơi khác: Trời sẽ giúp những người tự giúp đỡ mình. Là nước hạ lưu phải chịu những tác động ngày càng khó chịu của các dự án thủy điện của Trung Quốc hay do nước này hậu thuẫn ở dòng chính Mekong, Việt Nam có thể học người nông dân cù lao Giêng trong việc duy trì các hoạt động nông nghiệp sử dụng nước ngọt và bảo vệ các phương cách sống trong khi thúc đẩy du lịch sinh thái.
Mô hình phát triển kinh tế này trông khá quen thuộc ở những nơi khác, nhưng nó thực sự là vô giá ở ĐBSCL mong manh khi mà nó liên kết việc bảo vệ sinh thái để xóa đói giảm nghèo trong khu vực, tạo điều kiện cho cộng đồng dễ bị tổn thương đối phó hiệu quả với những nguy hiểm và tác động do biến đổi khí hậu và các dự án xây đập của Trung Quốc. Ở khía cạnh này, cách tiếp cận của nông dân đảo ‘tiếp tục cho thấy một lựa chọn chính sách rõ ràng về chiến lược tự giúp đỡ với sự thay đổi của khí hậu ở đồng bằng này, thay vì chờ đợi trong vô vọng về bất cứ “vị cứu tinh nước” từ các nước láng Giêng phía thượng lưu của sông Mekong. Những gì chính phủ sẽ phải làm, trong số những thứ khác, là để giúp đỡ và cung cấp đủ phương cách cho những công dân cần được quan tâm nâng cao tiếng nói của họ về các vấn đề có tầm quan trọng quốc gia trong khi thực hiện chiến lược phát triển nông nghiệp đầy tham vọng, nhằm mục đích phát triển một nền nông nghiệp “bền vững, hiện đại và giá trị cao ở ĐBSCL”, như Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nói trong bài phát biểu tại đây vào tháng 6 năm 2016.
Bài học thứ 3: Điều cần thiết cho chính sách “Gạo trước tiên”
Câu chuyện thành công của nông dân tỷ phú ‘ở cù lao Giêng cũng đã làm rõ được lý do tại sao Việt Nam nên tìm kiếm một chính sách “gạo trước tiên”, mà chủ trương sản xuất nông nghiệp sử dụng nước ngọt, ít nhất là trong tương lai gần, ở ĐBSCL. Trước hết, liên quan đến bài học đầu tiên, công nghiệp hóa vội vàng mà không chuẩn bị cẩn thận – tăng cường khả năng của chính quyền địa phương trong quản lý công nghiệp và quản lý môi trường và chuẩn bị nông dân mất việc làm phi nông nghiệp – chắc chắn có thể làm tăng rủi ro môi trường gây ra do các đập ở thượng lưu sông Mekong và dẫn đến rối loạn xã hội do di cư tự phát và tỷ lệ nghèo tăng vọt.
Thứ hai, ĐBSCL vẫn là cơ sở sản xuất nông nghiệp chính ở Việt Nam, không chỉ góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu và an ninh lương thực quốc gia, mà còn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước. Ngành nông nghiệp của vùng đồng bằng nói riêng có nguồn đầu tư phong phú như vốn đến từ xuất khẩu nông nghiệp và tiết kiệm, để nuôi các lĩnh vực hiện đại và công nghiệp khác phát triển của nền kinh tế của Việt Nam. Như vậy, diện tích đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng càng co lại thì càng nhiều các mối đe dọa tiềm năng nghiêm trọng làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Thứ ba, mặc dù ĐBSCL được coi là “vựa lúa” lớn nhất nước sản xuất sản phẩm nông nghiệp quanh năm, đói nghèo vẫn còn những thách thức, đặc biệt là trong mùa khô. Cuộc khủng hoảng nhân đạo do thiếu lương thực và nước ngọt, theo sau bởi giá lương thực tăng vút, trong đợt hạn hán năm ngoái đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường năng lực sản xuất nông nghiệp địa phương và tự tạo ra nguồn cung cấp thực phẩm.
Thứ tư, trong những năm gần đây nông dân ở các tỉnh ven biển như Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu đã chuyển từ trồng lúa sang mô hình tôm-lúa, được cho là có tiềm năng trở thành bền vững hơn và có lợi nhuận hơn so với trồng lúa truyền thống. Tuy nhiên, dễ thấy rằng hầu hết nông dân trồng lúa-tôm ở ĐBSCL vẫn không thành công trong khi các khu rừng ngập mặn và môi trường địa phương bị hư hỏng không thể sửa chữa do ô nhiễm nước muối và sau một vài vụ nuôi tôm. Từ góc độ của các nhà môi trường, biến đổi khí hậu, tăng nhiệt độ nước và độ mặn, và nước mưa khan hiếm cùng với ô nhiễm tất cả gây khó khăn để trồng lúa trong mùa mưa, trong khi nuôi tôm đang ngày càng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh không kiểm soát được và nước ô nhiễm. Kết quả là, các xã nuôi tôm-lúa rất dễ bị thiếu lương thực và nước ngọt trong mùa khô trên các cánh đồng của họ và ao nuôi tôm bị ô nhiễm nặng bởi nước mặn, không còn sử dụng để trồng lúa hoặc trồng rau khác.
Vì vậy, khi hệ thống thủy lợi nội bộ và mạng lưới các con đập và nhà máy khử muối vẫn còn chưa đầy đủ và không hiệu quả, các cơ quan nhà nước và nông dân của vùng đồng bằng cần phải bảo vệ khu vực nông nghiệp nước ngọt của họ bằng mọi cách để ngăn chặn việc mở rộng đất nông nghiệp bị ô nhiễm bởi nước mặn xâm nhập.
Bài học thứ 4: Đây là thời điểm cần sự sáng suốt
Câu chuyện thành công nói trên từ ngôi làng tỷ phú ở An Giang cho thấy người nông dân ở ĐBSCL, hầu hết trong số họ không có được nền giáo dục tốt, có thể làm giàu cho mình với mô hình sản xuất nông nghiệp sáng tạo, có thể tạo thêm nhiều việc làm mới và các hoạt động kinh tế hỗ trợ. Mặt khác, nó cũng nhấn mạnh sự khôn ngoan và kinh nghiệm của người dân địa phương trong việc thích nghi với điều kiện môi trường thay đổi của riêng mình. Rõ ràng, những dân làng đảo đã tăng cường năng lực của họ để giải quyết các nguy cơ do biến đổi khí hậu và giảm thiểu tác động của các con đập bằng thay đổi mô hình canh tác truyền thống để phù hợp với thay đổi của môi trường và thời tiết. Trí tuệ của địa phương đó phải được công nhận là một phần quan trọng trong cách tiếp cận rộng hơn trong khu vực để phát triển với khí hậu.
Từ quan điểm về hoạch định chính sách, chiến thuật cỉa nông dân địa phương để đáp ứng với điều kiện thay đổi khí hậu cần được đưa vào việc ra quyết định của chính phủ. Vì vậy, bất kỳ chính sách hoặc biện pháp được đề xuất bởi các chuyên gia hay áp đặt quan điểm và giải pháp của họ lên người dân địa phương; đúng hơn, họ nên chú ý nhiều hơn đến sự khôn ngoan của địa phương với một cái nhìn tổng thể về quá trình phát triển của vùng đồng bằng cho lợi ích tất cả các thành viên – người nông dân, các bên liên quan kinh tế, và chính quyền địa phương.
Kết luận
Khí hậu, đặc biệt là lũ lụt và hạn hán, không phải là hiện tượng mới ở ĐBSCL. Tuy nhiên, lịch sử, tàn phá “thảm họa kép” hạn hán năm ngoái vụ như là một ví dụ dễ thấy nhất để hiểu tính khốc liệt nguy hiểm khí hậu có thể đưa lại với việc thảm họa bị trầm trọng hơn bởi các con đập ở đầu dòng chính sông Mekong. Sự việc tồi tệ hơn với sự phát triển công nghiệp không bền vững được thực hiện bởi chính quyền các tỉnh trong khu vực, gây nguy cơ rủi ro an ninh môi trường, phá hoại hệ sinh thái khu vực và tăng rối loạn xã hội. Tuy nhiên, những câu chuyện thành công của tỷ phú nông dân ở cù lao Giêng, một vùng đất nhạy cảm với thảm họa, lộ ra triển vọng đầy hứa hẹn cho chiến lược tự cứu mình trong việc đối phó với biến đổi khí hậu. Mặc dù khu vực này đã có một sự ổn định tương đối và cải thiện trong bảo vệ môi trường, nó phải trả giá cho Việt Nam, buộc chính phủ phải thận trọng và kiên nhẫn trong hoạch định chính sách.
Trong khi theo đuổi chính sách ngoại giao chống việc xây đập trên sông Mekong, Việt Nam cần phải thực hành tự lực bằng việc duy trì sản xuất nông nghiệp nước ngọt, thúc đẩy các nỗ lực hiện đại hóa nông nghiệp, và tôn trọng trí tuệ địa phương. Tất cả những bước cần thiết cho một chiến lược với thay đổi khí hậu, đặc biệt là khi lưu vực sông Mekong tiếp tục chịu đầy rủi ro an ninh môi trường nhìn thấy và tác động liên hoàn phức tạp.
Nguyễn Minh Quang là một giảng viên tại Đại học Giáo dục, Đại học Cần Thơ, tập trung vào các nghiên cứu xung đột và các vấn đề an ninh môi trường trong khu vực Đông Nam Á. Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của tác giả riêng và không phản ánh quan điểm của trường Đại học Cần Thơ.