Cát Tường
(VNTB) – Việc xây dựng luật về quyền chủ tịch nước là cụ thể hóa nội dung Hiến định ở điều 88 của luật hiến pháp.
Chủ tịch nước có những quyền gì?
Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại Điều 88 Hiến pháp 2013 sau đây: Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;
Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;
Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá;
Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam;
Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân;
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70 Hiến pháp 2013; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước.
“Thống lĩnh Lực lượng vũ trang nhân dân” là làm gì?
Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh cho rằng Hiến pháp, Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia… chỉ mới quy định mang tính nguyên tắc về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước với vai trò là thống lĩnh Lực lượng vũ trang nhân dân, chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
Các luật, pháp lệnh được xây dựng, thông qua trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV không có quy định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước với vai trò là thống lĩnh Lực lượng vũ trang nhân dân, chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
Về nhiệm vụ này, mặc dù Chính phủ đã hoàn thành việc rà soát nhưng lại chưa có báo cáo cụ thể. Do đó thường trực ủy ban đề nghị Chính phủ có báo cáo kết quả nghiên cứu, rà soát về nhiệm vụ này. Đồng thời, nghiên cứu về việc xây dựng một đạo luật chuyên ngành để quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
Ngoài ra, ghi nhận ở Hiến pháp năm 2013 vẫn tiếp tục duy trì một chế định vốn đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, đó là trao cho Chủ tịch nước quyền “phủ quyết hạn chế” đối với cơ quan lập pháp.
Theo đó, khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội đệ trình một pháp lệnh nào đó lên Chủ tịch nước công bố, nếu không đồng ý, Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đó trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua.
Trong trường hợp pháp lệnh đó tiếp tục được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua mà Chủ tịch nước vẫn không đồng ý, Chủ tịch nước sẽ trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (khoản 1, Điều 88 Hiến pháp năm 2013).
Tuy nhiên, quyền này của Chủ tịch nước không được áp dụng đối với các luật của Quốc hội. Do đó, đây có thể coi là quyền “phủ quyết hạn chế” của Chủ tịch nước đối với quyền lập pháp. Chủ tịch nước chỉ có thể trì hoãn một pháp lệnh, chứ không thể hủy bỏ văn bản này.
Khả thi không khi quyền tối thượng cho tất cả vẫn là Tổng bí thư?
Đối chiếu với việc xây dựng, ban hành Luật Chủ tịch nước, có lẽ không cần bàn thêm về sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến chế định này.
Bởi lẽ, với vị trí, vai trò là thiết chế đứng đầu nhà nước và trong nhà nước pháp quyền thì tất yếu những vấn đề về Chủ tịch nước phải được điều chỉnh bằng pháp luật.
Trên thực tế, Hiến pháp và nhiều đạo luật của Việt Nam xã hội chủ nghĩa qua các thời kỳ đều đã có những quy định về Chủ tịch nước. Vậy, vấn đề còn lại là cần xác định xem pháp luật về Chủ tịch nước hiện hành có cần hoàn thiện không; và nếu cần thì việc xây dựng, ban hành Luật Chủ tịch nước có phù hợp, khả thi không, khi mà quyền tối thượng cho tất cả vẫn chỉ một đầu mới là Tổng bí thư Đảng?
Ngay cả vai trò được gọi là “thống lĩnh Lực lượng vũ trang nhân dân” cũng xếp hàng thứ yếu so chức danh Bí thư Quân ủy Trung ương Quân đội Nhân dân Việt Nam.