Quốc Việt
(VNTB) – 20g ngày 17-1-1974, chiến hạm Nhật Tảo quay mũi trực chỉ Hoàng Sa. Lúc này một máy chính của tàu không sử dụng được, ra-đa trục trặc, hỏa lực đối hạm đều là thế hệ cũ…
Chuyến hành quân cuối cùng
“Mẹ tôi khóc suốt nhiều năm bên nấm mộ chiêu hồn sau ngày anh tôi hi sinh ở Hoàng Sa. Đến đám giỗ cuối cùng của anh, khi ấy mẹ còn sống, trên giường bệnh bà vẫn trăng trối: Con phải gắng đưa anh về. Tổ tiên, mồ mả ông bà trên đất quê hương, đừng để anh ngoài biển lạnh lẽo!”.
Huế, tháng 1, mưa mờ mịt. Người em tử sĩ Vương Thương ứa nước mắt, nhắc chuyện anh mình và trận tử chiến Hoàng Sa…
Nhiều năm gặp gỡ chứng nhân, viết về quần đảo Hoàng Sa máu thịt của Tổ quốc, tôi vẫn nghẹn lòng khi nhắc nhớ một buổi tối mùa đông ở Huế. Trong căn nhà nhỏ bạc màu thời gian, ông Vương Lăng, em trai trung sĩ giám lộ Vương Thương trên chiến hạm bi hùng Nhật Tảo đã hi sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa, cứ khóc mãi khi ôn ký ức về anh mình.
50 năm đã qua với bao biến động thời cuộc, giọt nước mắt vẫn ngập tràn vị nóng của trái tim người ở lại và như có cả vị mặn của biển, nơi những người con nước Việt còn đang nằm dưới đó…
Nghe tôi sẻ chia nỗi buồn, ông Lăng lạc giọng: “Nước mắt tôi có là gì đâu so với nỗi đau của 74 gia đình tử sĩ còn đang gửi xương cốt ngoài Hoàng Sa!”.
Người em trai gầy gò tâm sự: trước ngày lịch sử 19-1-1974, trung sĩ Vương Thương đã báo gia đình ở Huế là sẽ được về Tết. Mẹ anh nghe vậy mừng lắm, vui vẻ chuẩn bị chuyện vợ con cho anh.
Bất ngờ, kế hoạch bị hủy bỏ, chiến hạm HQ10 – Nhật Tảo, mà Vương Thương là sĩ quan giám lộ, nhận lệnh khẩn cấp hành quân bảo vệ Hoàng Sa đang bị các chiến hạm Trung Quốc và tàu cá giả dạng lăm le…
Lẽ ra Vương Thương cùng đồng đội tàu Nhật Tảo đã được nghỉ ngơi, vì chiến hạm cần được sửa chữa một trong hai động cơ đã bị hư. Nhưng chiều 17-1, Nhật Tảo được lệnh hành quân khẩn cấp nhằm hỗ trợ cùng các chiến hạm HQ4 Trần Khánh Dư và HQ16 Lý Thường Kiệt đã có mặt ở Hoàng Sa. Lý do là Nhật Tảo đang đủ phiên trực, lại ở gần Hoàng Sa nhất.
20g ngày 17-1-1974, Nhật Tảo rời cảng Tiên Sa, quay mũi trực chỉ Hoàng Sa. Hạm trưởng là hải quân – thiếu tá Ngụy Văn Thà, hạm phó là đại úy Nguyễn Thành Trí, trung sĩ Vương Thương làm giám lộ trên đài chỉ huy. Hộ tống hạm HQ10 – Nhật Tảo nguyên là tàu quét mìn USS Serene 300 của Mỹ từ Thế chiến thứ hai. Năm 1964, tàu này được hoán cải thành hộ tống hạm và chuyển giao cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Chứng nhân Trần Văn Hà, thủy thủ có mặt trên chiến hạm Nhật Tảo, kể lại: “Bình thường, chúng tôi đã nhập biển Hoàng Sa sớm hơn. Nhưng chuyến hành quân này tàu Nhật Tảo bị hư hỏng quá nhiều, nặng nhất là một máy chính không sử dụng được, ra-đa trục trặc, hỏa lực đối hạm đều là thế hệ cũ chỉnh bằng tay…”.
Tình hình Hoàng Sa lúc này đã căng thẳng. Hạm trưởng Thà cho chuẩn bị đầy đủ đạn dược, lương khô, nước uống ngay vị trí chiến đấu của binh sĩ. Đến gần nửa đêm 18-1 thì hộ tống hạm Nhật Tảo kịp đến vùng biển Hoàng Sa, cùng ba chiến hạm Trần Khánh Dư, Lý Thường Kiệt và Trần Bình Trọng chuẩn bị tác chiến.
Nhân chứng Hà kể đêm 18-1, hạm trưởng Thà phát lệnh làm tối tàu Nhật Tảo để tránh bị theo dõi. 2g sáng 19-1, ông triệu tập cuộc họp khẩn cấp trên tàu, phổ biến tất cả chuẩn bị tác chiến bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Gần 7g sáng 19-1, sau khi nắm tình hình lần nữa, hạm trưởng Thà dặn dò pháo thủ phải cố bắn chính xác ngay loạt đạn đầu khi có lệnh để phá vỡ lợi thế tốc độ của đối phương.
Trận đánh bi hùng
Trong hồi ức của mình, hạ sĩ trọng pháo 76 li Vương Văn Hà nhớ lại: đang lúc cam go nhất thì khẩu 76 li hỏa lực chính trước mũi Nhật Tảo lại bị trục trặc, cả con tàu bị chiến hạm Trung Quốc bắn xối xả.
Trên đài chỉ huy, hạm trưởng Thà hi sinh với mảnh đạn phạt ngang cổ, hạm phó Trí bị thương nặng nhưng vẫn gắng điều khiển Nhật Tảo đâm thẳng vào tàu đối phương như đòn quyết tử cuối cùng khi con tàu đã sắp bất khiển dụng hoàn toàn và hỏa lực pháo hạm đã hỏng hóc.
Tình thế bắt buộc đại úy Trí phát lệnh rời tàu.
Viết trong Nhật ký Hoàng Sa, chuẩn úy Tất Ngưu kể lại vẫn nhớ những lời rắn rỏi cuối cùng của hạ sĩ Lê Văn Tây: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với bọn Trung Quốc, chuẩn úy cứ nhảy đi”. Hạ sĩ Tây là xạ thủ đại liên 20 li, anh đã bị mảnh pháo làm thương nặng ở cả hai chân. Anh chọn hy sinh cùng chiến hạm Nhật Tảo. Cùng ở lại với Anh còn có hạ sĩ Ngô Văn Sáu, Anh cũng bị thương nặng và chọn ở lại với khẩu 20 li để tử thủ cùng tàu.
Bốn chiếc bè trên tàu được thả xuống biển và kết lại để tất cả cùng sinh tử. Những người xuống biển ứa nước mắt nhìn nòng súng 20 li của hạ sĩ Tây vẫn lóe lên trên chiến hạm Nhật Tảo rồi tắt hẳn trước hỏa lực áp đảo của đối phương…
Lúc này, tình hình trên biển cũng hết sức nghiêm trọng. Đại úy Trí bị thương nặng, trút hơi thở cuối cùng trong đêm. Rồi Vương Thương, Đa, Thọ, Nam, Tuấn cũng ra đi.
Hồi ức của hạ sĩ Vương Văn Hà vẫn nhớ đồng đội Vương Thương lênh đênh đến ngày thứ 4 thì mất. Đồng đội cố giữ thi hài anh một ngày với hi vọng có tàu đến vớt đưa về bờ, nhưng rồi phải ngậm ngùi thủy táng anh.
Họ khấn vái đồng đội: “Anh là giám lộ, xin chỉ dẫn đường để gặp tàu bạn”. Và đêm đó, một chiếc tàu buôn Hà Lan đã đi ngang qua và vớt những người lính cuối cùng còn lại của chiến hạm Nhật Tảo…
Nhưng 74 đồng đội của họ đã vĩnh viễn nằm lại quần đảo Hoàng Sa của Tổ quốc cùng chiến hạm Nhật Tảo! Nằm dưới lòng biển Tổ quốc
Theo trung sĩ Trịnh Văn Quý thuộc lực lượng đổ bộ đảo Hữu Nhật, đến khoảng 8h sáng 20-1-1974, ông vẫn còn thấy khói lửa bốc lên từ chiến hạm bi hùng Nhật Tảo trước khi nó chìm hẳn xuống lòng biển Tổ quốc.
______________
Nguồn: Tuổi Trẻ Online