Thiên Điểu
(VNTB) – Tinh thần đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ, ủng hộ lẫn nhau trong cộng đồng một đất nước hay trong quan hệ quốc tế luôn đáng quý, đáng trân trọng. Mỗi người dân Việt Nam cần phải biết minh bạch để cảm ơn những sẻ chia ấy. Nhưng cũng phải biết hổ thẹn khi nhìn nhận mà đặt ra câu hỏi trước một thực tế: Đất nước Việt Nam, Cu-ba, Triều Tiên… người dân Cu-ba, Triều Tiên ngày nay có gì và được gì sau những “học tập, noi gương” nhau như thế? Đói nghèo, lạc hậu… Ngoài ra không có gì khác!
Thụy Sĩ với may mắn được dẫn dắt bởi những lãnh đạo tỉnh táo, minh mẫn đã thoát ly rất sớm khỏi ảo ảnh của cách mạng vô sản. Chuyển hẳn sang thể chế độc lập, phát triển quan hệ trung lập, tránh khỏi cuộc chơi trên bàn cờ địa chính trị, nhanh chóng đưa đất nước phát triển, tiến đến thịnh vượng, giàu có. Ba-lan, Đông Âu và hàng loạt quốc gia khác đã thức tỉnh sau cuộc chạy đua vũ trang thời chiến tranh lạnh. Họ đã nhận ra mối nguy hiểm thực sự cho đất nước khi đánh cược số phận của dân tộc vào vị trí mũi tên hòn đạn bởi các siêu cường đang toan tính tranh giành ảnh hưởng, giành giật quyền lợi. Sự sụp đổ của Liên Xô giúp họ cơ hội để dứt khoát với CNCS, tìm đến cuộc chơi sòng phẳng, bình đẳng hơn trong thể chế dân chủ.
Triều Tiên mệt mỏi với cuộc đối đầu dai dẳng do chia cắt hai miền Nam-Bắc đang từng bước tìm kiếm giải pháp hòa bình để thống nhất. Từ một quốc gia tưởng chừng như đã lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, đã dũng cảm công khai thoát ly, thậm chí sẵn sàng đối đầu.
Việt Nam thì sao? Tôi vẫn tin, vẫn dặn lòng mình phải ghi nhận một thực tế là ĐCSVN đã có công giành được độc lập cho đất nước bởi cuộc cách mạng 1945. Tôi tin có nhiều Đảng viên ĐCSVN thời kỳ trước 1945 và cả trước 1975 là những đảng viên tốt. Họ đi theo CNCS với lý tưởng thật sự mong muốn góp sức vì một Việt Nam tốt đẹp hơn. Có điều, ĐCSVN ấy đã thay đổi, đã biến chất dù ngay từ đầu không hề hiểu rõ cái lý luận về CNCS. Lớp Đảng viên cộng sản ấy đã không thể ngờ và không nghĩ rằng khi cái tâm tốt, cái tinh thần dám xả thân vì đất nước bị lợi dụng, bị dẫn dắn bởi những âm mưu chính trị thâm độc thì mọi công lao trở thành vô nghĩa. Cái quyền lực được dựng lên từ dốt nát thì nó nguy hiểm đến mức nào. Trong hàng ngũ Đảng viên ĐCSVN đã thức tỉnh, ngày càng nhiều người dám mạnh dạn công khai rời khỏi Đảng, kêu gọi cải thiện dân chủ… Đó là minh chứng rõ ràng và không thể chối bỏ.
Mù quáng trong niềm tin – thủ đoạn trong nhận thức!
Suốt mấy chục năm cầm quyền, các thế hệ lãnh đạo cao nhất của ĐCSVN luôn xác định trung thành với CNCS. Nhưng lại lẫn lộn khi đánh đồng hệ tư tưởng CNCS với vai trò lãnh đạo của một cá nhân ở một quốc gia mang danh nghĩa cộng sản. Tư tưởng một thời sùng bái Lê-Nin rồi tới cả Stalin – người ngày nay bị phần lớn người dân Âu châu và nhiều nơi khác xem là một độc tài, và sau này là Mao Trạch Đông là ví dụ cho thứ niềm tin mù quáng, sự lẫn lộn trong tư tưởng chính trị của các lãnh đạo ĐCSVN.
Sau 1975, bỏ qua vấn đề tranh cãi về ý nghĩa đúng sai trong cuộc chiến Bắc-Nam, anh em chém giết lẫn nhau, lấy cái ý nghĩa “thống nhất đất nước” làm giá trị thay cho sai lầm, thù hận thì các chính sách và quan điểm sai lầm, mù quáng của lãnh đạo ĐCSVN vẫn không có gì thay đổi.
Tin TQ, học theo TQ…, các lãnh đạo Việt Nam nhìn nhận cuộc “cách mạng văn hóa”, chính sách “đại nhảy vọt” của Trung Quốc ra sao? Hàng chục triệu sinh mạng người dân, hàng triệu đảng viên ĐCS Trung Quốc bị sát hại trong “cách mạng văn hóa” thực chất là gì nếu không phải là cuộc lật đổ, cướp công của những kẻ cơ hội? Việc thành lập các “đại công trường” trong chính sách thời kỳ “đại nhảy vọt” là gì nếu không phải là chính sách chiếm hữu nô lệ của thời Trung cổ?
Đặt ra câu hỏi như vậy, sẽ tiếp nối câu hỏi: Vấn đề tư tưởng nào chi phối hệ thống chính trị ở Việt Nam sẽ đặt ra thêm một dấu ấn mới, một ý nghĩa với màu sắc mới? Nó không còn đơn giản ở những sai lầm, mù quáng. Bản chất dốt nát của thế hệ lãnh đạo từ giai cấp vô sản được bộc lộ, được bù đắp bằng thủ đoạn và mưu đồ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, hình thành cái cấu trúc thật sự trong hệ thống chính trị, quyền lực ngày nay.
Là người Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có quyền đặt câu hỏi: Lý tưởng nào, chính nghĩa nào khi ĐCSVN giành hết mọi vinh quang, tốt đẹp về mình nhưng lại thực hiện cải cách ruộng đất để thực thi một cuộc tàn sát đẫm máu ở miền Bắc? Trung thành nào khi thực thi chính sách Hợp tác xã, gom sạch từng con trâu, con heo, mảnh đất từ “dân cày có ruộng” vào HTX để hô biến bằng khái niệm “sở hữu toàn dân”, trong khi không có bất cứ ai trong cái khái niệm “toàn dân” ấy được quyết định hay công nhận quyền lợi của mình? Tất cả những điều đó là thể hiện sự phản bội, đi ngược lại các cam kết và tiêu chí ban đầu của phong trào Việt Minh – tiền thân của chính quyền cộng sản ở Việt Nam.
Vấn đề “kiên trì đi theo định hướng XHCN” của ĐCSVN là đi theo đường lối nào khi mà ngay từ đầu đã lẫn lộn các nhận thức một cách mù mờ về nền tảng lý luận như vậy? Câu nói vừa mang tính thắc mắc vừa mang tính phản biện của ông Trần Phương, nguyên Phó thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ nội vụ “CNXH là cái gì? Nó như thế nào các anh phải viết ra, chỉ ra cụ thể…” và gần đây nhất là phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng “đến hết thể kỷ này chưa chắc thấy CNXH…” là minh chứng chỉ ra rằng: Chính các lãnh đạo của ĐCSVN cũng không hiểu, không xác định được nền tảng chính trị mà họ đang trưng ra để dẫn dắt xã hội Việt Nam là cái gì, như thế nào!
Suốt bao nhiêu năm, ĐCSVN luôn tin tưởng, đặt quan hệ Việt-Trung trên tinh thần anh em chỉ vì “đều là cộng sản, đều là XHCN”. Thế nhưng, bao nhiêu lãnh đạo, bao nhiêu lớp cán bộ Việt Nam qua Trung Quốc tham quan, học tập… không lẽ lại không hề nhận ra một sự thật: Từ khi giành được quyền lực, chính quyền TQ chưa bao giờ chia sẻ, giúp đỡ nước nào một cách thân thiện ngoài viện trợ cho Việt Nam và Triều Tiên để chống Mỹ với các điều kiện cắt cổ. Viện trợ cho Kh’me Đỏ tàn phá Campuchia, thực thi diệt chủng dân tộc Campuchia, tấn công Việt Nam, từng bước thực thi chính sách độc chiếm Biển Đông bất chấp cả luật pháp quốc tế(!)
Họ không nhìn thấy trên thực tế TQ đã chuyển sang một mô hình kinh tế thị trường – tuy có chút khác biệt nhưng thực chất vẫn là kinh tế tư bản, một điều kiện tiên quyết, bắt buộc khi gia nhập WTO – từ hàng mấy chục năm trước khi TQ gia nhập WTO vào năm 2001. Hay là họ thấy nhưng cố lờ đi để bảo vệ cái hình ảnh con ngáo ộp “đế quốc, tư bản” mà họ đã vẽ ra nhằm che đỡ cho cái danh XHCN không hình, không bóng?
Không hiểu hay cố tình lờ đi?
Điều ai cũng hiểu, cũng biết rất rõ rằng: Tham nhũng hình thành bởi sút giảm đạo đức, mất lòng tin vào cái tốt, sự minh bạch, công bằng của luật pháp. Sự gia tăng nhu cầu thỏa mãn của lòng tham.
Đạo đức, lòng tin càng sút giảm thì vấn nạn tham nhũng càng tăng. Chính cái nhận thức đủ để giới quan quyền lãnh đạo Việt Nam biết rằng cái CNXH chỉ là ảo. Tuy không lý giải được đầu đủ trên khía cạnh chính trị, triết học, nhưng nó đủ để họ mất lòng tin vào CNCS, CNXH… Đó chính là lý do vì sao ĐCSVN đã luôn gìn giữ, luôn đánh bóng hình tượng Hồ Chí Minh, luôn tuyên truyền về CNXH với những gì tốt đẹp nhất. Nhưng hàng chục đợt sinh hoạt chính trị “Học tập theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh” mỗi năm không đem lại tác dụng gì ngoài tham nhũng, cửa quyền ngày càng gia tăng. Gần một thế kỷ qua theo “định hướng XHCN” nhưng đời sống người dân vẫn thụt thò ở ngưỡng cửa đói nghèo!
Tham nhũng, lợi ích nhóm gần như đã chi phối toàn bộ đời sống chính trị, xã hội của Việt Nam. Thái độ cam chịu và nỗi lo cơm áo gạo tiền của người dân Việt Nam trong cái vòng kim cô của quyền lực và thủ đoạn đã tạo nên hệ thống chính trị thối nát nhưng vẫn ung dung tồn tại trong cái lý luận sáo rỗng “ổn định để phát triển”. Việc có những phát ngôn nói phong trào dân chủ là “gây hại cho đất nước, làm mất ổn định..” thực chất là chỉ ra cái mù quáng đến tận gốc rễ trong niềm tin. Không dám đối diện, không dám nhìn thẳng để đánh giá đúng sai, hay dở… hơn là từ một nhận thức thực tế.
Đến một lúc nào đó, người dân Việt Nam bừng tỉnh và nhìn thấy các bản chất trần trụi của cái gọi là “chuyên chính vô sản” được chèo lái bởi những “tư bản đỏ” đầy tham lam, tàn bạo thì lịch sử sẽ tái lập lại cái quy luật tất yếu:
Những giá trị hợp lý, công bằng luôn là cơ sở khẳng định ý nghĩa để tồn tại.
(Còn tiếp)
Phần 3: Trả lại quyền lực cho dân – Chỉ một con đường duy nhất.