HÀ NỘI (NV) – Trong ngày 21 tháng 7, 2015, chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị của hai ngân hàng thương mại tại Việt Nam cùng xin từ chức.
Theo báo chí Việt Nam, tại đại hội cổ đông của Ngân hàng Thương mại Ðông Á (DongA Bank), ông Cao Sỹ Kiêm, cựu thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước và thời điểm đó đang giữ vai trò chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị của DongA Bank xin từ chức và rút lui khỏi Hội Ðồng Quản Trị vì “lý do cá nhân.”
Ocean Bank – một trong ba ngân hàng thương mại mà Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam “quốc hữu hóa.” (Hình: TBKTSG)
Cũng ngày 21 tháng 7, 2015, tại đại hội cổ đông của Ngân hàng Thương mại Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), ông Lê Hùng Dũng, chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị Eximbank xin thôi, không tiếp tục ứng cử vào Hội Ðồng Quản Trị của Eximbank nữa.
Khác với ông Kiêm, ông Dũng giải thích lý do xin thôi: “Kinh doanh ngân hàng giống như đá bóng, thắng làm vua, thua làm giặc.”
Tin ông Kiêm và ông Dũng từ chức bị một sự kiện khác cũng liên quan đến hệ thống ngân hàng và viên chức ngân hàng nhấn chìm, đó là việc ông Nguyễn Xuân Sơn, chủ tịch tập đoàn dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) bị bắt ngay sau khi bị cách chức.
Ông Sơn bị cách chức ngày 19 tháng 7, hôm sau, ngày 20 tháng 7 vào bệnh viện cấp cứu và ngày 21 tháng 7 bị bắt tại bệnh viện vì “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” lúc còn đang là tổng giám đốc ngân hàng Ðại Dương (Ocean Bank).
Từ năm ngoái đến nay, đã có hàng chục viên chức của nhiều ngân hàng thương mại (Ocean Bank, VNCB – Ngân hàng Xây dựng Việt Nam, ACB, tại Việt Nam bị bắt giữ vì những sai phạm giống như ông Sơn.
Trong vòng năm tháng vừa qua, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã tuyên bố mua lại ba ngân hàng thương mại (GP Bank – Ngân hàng Thương mại Dầu khí Toàn cầu, Ocean Bank, VNCB) với giá 0 đồng nhằm thực hiện “tái cơ cấu” hệ thống ngân hàng – thực chất là níu giữ không để ba ngân hàng này phá sản.
Tuy nhà cầm quyền CSVN và Ngân Hàng Nhà Nước của chế độ không cho biết chi tiết về hiện trạng của hệ thống ngân hàng thương mại, song có những dấu hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng và có thể sụp đổ theo kiểu dây chuyền. Người ta tin rằng việc quốc hữu hóa (mua lại 100% cổ phần với giá 0 đồng) của các ngân hàng thương mại là một nỗ lực nhằm ngăn chặn sự sụp đổ đó.
Năm 2008, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) từng cảnh báo, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam là nguy cơ tiềm ẩn cho nền kinh tế. Hoạt động chủ yếu của hệ thống này là rót tiền vào lãnh vực bất động sản. Khi thị trường bất động sản đóng băng, hệ thống này có thể tạo ra khủng hoảng tín dụng.
Cũng thời điểm đó, một số chuyên gia kinh tế khác nhận định, dù được gọi là “cổ phần” song đa số ngân hàng ở Việt Nam đều do nhà cầm quyền CSVN thành lập hoặc cung cấp vốn. Bởi có sự trộn lẫn giữa vốn nhà nước và vốn tư nhân, chuyện kiểm soát việc góp và sử dụng vốn lại lỏng lẻo, thậm chí có nhiều dấu hiệu đáng ngờ nên “nợ xấu” (nợ không có khả năng thu hồi cả vốn lẫn lãi) đã trở thành một vấn nạn nghiêm trọng.
Các chính sách của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam nhằm cứu hệ thống ngân hàng được xem là một trong những lý do chính khiến kinh tế Việt Nam tụt dần xuống đáy.
Trong 15 năm từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã thực hiện ba đợt “tái cơ cấu” hệ thống ngân hàng vì kinh tế Việt Nam suy thoái và tác động của kinh tế thế giới: 2000-2003 (sau khủng hoảng tài chính Châu Á), 2005-2008 (vì gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới – WTO), 2012-2015.
Các đợt “tái cơ cấu” hệ thống ngân hàng bao gồm đóng cửa một số ngân hàng thương mại, cho ngân hàng này mua lại ngân hàng khác, hợp nhất ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn với công ty tài chính cổ phần, chuyển ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, sáp nhập các ngân hàng thương mại cổ phần vào với nhau.
Tuy nhiên, trong một báo cáo về kết quả khảo sát việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế trong đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011-2015, Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội CSVN nhận định, ba lần “tái cơ cấu” hệ thống ngân hàng cho thấy, việc quản lý hệ thống ngân hàng không ổn và đó là lý do khiến hệ thống này bất ổn, nguy hiểm cho toàn hệ thống.
Tính từ năm 2012 đến hết tháng 8 năm 2014, hệ thống ngân hàng đã xử lý được 214,000 tỉ đồng “nợ xấu” (những khoản cho vay bị mất cả vốn lẫn lãi) nhưng việc xử lý nợ xấu vẫn bị xem là quá chậm.
Việc để các tổ chức tín dụng tự xử lý nợ xấu đã làm suy giảm năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh của tổ chức tín dụng. Trong tám tháng đầu năm ngoái, tổng nợ xấu được “xử lý” bằng cách dùng các nguồn “dự phòng rủi ro” lên tới 11,200 tỉ đồng.
Việc thành lập công ty Quản lý Tài sản (VAMC) không đạt hiệu quả mong muốn vì năng lực tài chính có hạn. Tính đến cuối tháng 8 năm ngoái, VAMC đã mua 68,000 tỉ đồng “nợ xấu” nhưng chỉ bán được hơn 1,400 tỉ đồng. (G.Ð)
(Người Việt)