(VNTB) – Năm 2023, 54% lao động có trình độ đại học thất nghiệp, trong khi doanh nghiệp thiếu hụt 70% lao động kỹ thuật cao.
Sau năm 1975, Việt Nam bước vào thời kỳ tái thiết với nền tảng kinh tế tập trung bao cấp, dựa vào viện trợ từ khối cộng sản. Mô hình này dẫn đến tình trạng kém hiệu quả, thiếu động lực đổi mới, khiến đất nước đối mặt tụt hậu kinh tế-xã hội từ những năm 1980 cho đến nay. Cái gọi là chính sách Đổi Mới từ 1986 mở cửa nền kinh tế, nhưng di sản của tư duy quản lý cũ cùng cơ chế xin-cho vẫn tồn tại dai dẳng, tạo ra nghịch lý cải cách kinh tế đi trước nhưng đổi mới thể chế, nhân lực và quản trị lại chậm trễ.
50 năm tụt hậu
Hệ thống giáo dục-đào tạo chưa giải quyết được bài toán “thừa thầy thiếu thợ”: 54% lao động có trình độ đại học thất nghiệp năm 2023, trong khi doanh nghiệp thiếu hụt 70% lao động kỹ thuật cao. Nguyên nhân sâu xa nằm ở việc các cơ sở đào tạo theo giáo điều, dẫn đến tình trạng 80% sinh viên làm trái ngành.
Năng suất lao động thấp và sự tụt hậu lại mang tính cấu trúc. Dù có lực lượng lao động trẻ (56% dân số trong độ tuổi lao động), năng suất lao động Việt Nam năm 2024 chỉ bằng 7% Singapore và 18% Malaysia. Yếu tố then chốt là tỷ lệ lao động kỹ năng thấp (chiếm 77%) và mức đầu tư cho đào tạo nghề thấp (0.32% GDP). Quá trình dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp/công nghệ cao bị đình trệ do thiếu chính sách đào tạo lại.
Độc đảng chủ trương cải cách nửa vời với xung đột lợi ích từ các nhóm trong giai cấp đỏ. Đặc biệt không ai có thể dự báo công việc dựa và thể chế pháp lý, hay thể chế pháp lý chỉ có cho có mà không thực. Mặc dù đã tinh gọn 50% điều kiện kinh doanh từ 2016-2024, môi trường đầu tư vẫn chịu áp lực từ “luật khung, nghị định mở”, tạo kẽ hở cho các văn bản tùy tiện. Ví dụ điển hình là lĩnh vực xây dựng, nơi doanh nghiệp mất 25% thời gian cho thủ tục hành chính.
Đảng tuy là độc đảng nhưng phân mảnh có tầm sâu xa trong lãnh đạo đảng và trong quản lý nhà nước. Bộ máy hành chính cồng kềnh với 4.3 triệu công chức (cao gấp 2.5 lần Thái Lan) tạo ra “ma trận thẩm quyền” giữa các bộ ngành. Tình trạng chồng chéo thể hiện rõ qua việc quản lý đất đai phải tuân thủ 17 luật và 17 nghị định khác nhau.
Cả nước liên miên trong vòng xoáy thiếu vốn và năng lực hấp thụ rất thấp trong đổi mới và sáng tạo, với một hệ sinh thái lạc hậu, tụt hậu, tụt lùi, rập khuôn, máy móc. Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) rất thấp và phân bổ bất hợp lý. Chi tiêu cho R&D của Việt Nam năm 2024 chỉ đạt 0.53% GDP (so với 2.4% của Hàn Quốc), trong đó 72% đến từ ngân sách nhà nước. Cơ chế tài trợ nghiên cứu theo “đặt hàng” dẫn đến tình trạng 68% đề tài khoa học không được ứng dụng.
Trong quản trị công, khoảng cách giữa chính sách và thực thi có phần còn to hơn cả đại dương Thái bình dương. Đầu tiên là bẫy thể chế trong thực thi pháp luật. Nghiên cứu của Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Cấp tỉnh (PCI) 2024 chỉ ra 47% doanh nghiệp phải chi trả “phí không chính thức” để giải quyết thủ tục. Tình trạng “trên nóng dưới lạnh” thể hiện qua việc 63% nghị quyết của Chính phủ không được triển khai đúng tiến độ tại địa phương.
Vì thể chế độc đảng, đất nước thiếu cơ chế giám sát độc lập. Việc đánh giá hiệu quả chính sách chủ yếu dựa vào báo cáo nội bộ của các bộ ngành, thiếu sự tham gia của tổ chức độc lập. Điều này dẫn đến hiện tượng “thành tích ảo” trong các chương trình cải cách.
Kinh nghiệm 50 năm cho thấy 3 nghịch lý cốt lõi trong cái gọi là “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”:
1. Phát triển kinh tế thị trường nhưng duy trì cơ chế quản lý kế hoạch hóa trong nhiều lĩnh vực.
2. Hội nhập quốc tế sâu rộng nhưng thiếu chiến lược nâng cấp công nghệ có hệ thống.
3. Dân số vàng nhưng thiếu chính sách khai thác hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đổi mới sáng tạo
Chiến lược Đổi mới Sáng tạo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) 2015 dựa trên các nghiên cứu trước đó để cung cấp một khuôn khổ toàn diện nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên toàn nền kinh tế.
Chiến lược này nhấn mạnh sự cần thiết của các chính sách phối hợp để trao quyền cho con người, hỗ trợ doanh nghiệp, nâng cao hệ thống tri thức, khuyến khích tinh thần khởi nghiệp và đảm bảo quản trị hiệu quả. Mục tiêu là giúp các chính phủ đạt được tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao phúc lợi xã hội thông qua đổi mới sáng tạo.
Các trụ cột chính của chiến lược
1. Lực lượng lao động có kỹ năng và khả năng thích ứng
– Chiến lược nhấn mạnh tầm quan trọng của lực lượng lao động được trang bị kỹ năng để tạo ra ý tưởng, công nghệ mới và thích ứng với những thay đổi công nghệ, cấu trúc nhanh chóng.
– Hệ thống giáo dục cần được cải cách để cung cấp giáo dục chất lượng cao, phù hợp và cơ hội học tập suốt đời, đảm bảo cá nhân có thể đổi mới và đáp ứng nhu cầu thay đổi.
2. Môi trường hỗ trợ kinh doanh
– Một môi trường kinh doanh lành mạnh là điều kiện thiết yếu để khuyến khích đầu tư vào công nghệ và vốn tri thức.
– Các chính sách nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới, đặc biệt là doanh nghiệp trẻ và nhỏ, thử nghiệm, phát triển và mở rộng quy mô. Chiến lược kêu gọi giảm rào cản cho các doanh nghiệp mới và tăng cường hỗ trợ trực tiếp thay vì chỉ dựa vào ưu đãi thuế.
3. Tạo lập và lan tỏa tri thức
– Việc theo đuổi tri thức nền tảng một cách hệ thống thông qua nghiên cứu công và tư là rất quan trọng.
– Chiến lược đề xuất các cơ chế mạnh mẽ để lan tỏa tri thức, bao gồm chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thị trường tri thức.
– Đầu tư công vào nghiên cứu cơ bản được nhấn mạnh là nền tảng cho đổi mới trong tương lai, với lời kêu gọi duy trì hoặc tăng đầu tư ngay cả trong bối cảnh thắt chặt tài khóa.
4. Chính sách thúc đẩy đổi mới và khởi nghiệp
– Cần có các chính sách đổi mới mục tiêu để giải quyết các rào cản cụ thể, thường ở cấp vùng hoặc địa phương.
– Chiến lược nhấn mạnh vai trò của người tiêu dùng có tầm hiểu biết, chủ động và có kỹ năng trong việc thúc đẩy đổi mới.
– Đồng thời, cần có các chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp và thành lập doanh nghiệp mới, vốn là động lực chính của đổi mới đột phá và tạo việc làm.
5. Quản trị và thực thi hiệu quả
– Quản trị và thực thi hiệu quả là yếu tố then chốt cho thành công của chính sách đổi mới.
– Chiến lược kêu gọi lồng ghép đánh giá và học hỏi vào quá trình hoạch định chính sách, đảm bảo các chính sách được điều chỉnh dựa trên bằng chứng và kinh nghiệm thực tiễn.
– Niềm tin vào hành động của chính phủ và cam kết cải tiến liên tục được nhấn mạnh là điều kiện cần thiết cho chính sách đổi mới hiệu quả.
Định hướng và khuyến nghị chiến lược
– Tập trung dài hạn: Chiến lược khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách ưu tiên đầu tư dài hạn vào nghiên cứu và đổi mới để giải quyết các thách thức lớn như biến đổi khí hậu và già hóa dân số.
– Tiếp cận chính sách tổng thể: Chính sách đổi mới cần vượt ra ngoài các can thiệp theo ngành, hướng tới cách tiếp cận toàn chính phủ, đảm bảo sự nhất quán và tận dụng các hiệu ứng cộng hưởng giữa các lĩnh vực.
– Đo lường và đánh giá: Cần cải thiện công tác đo lường đổi mới, bao gồm tài sản vô hình và tác động rộng hơn, để đánh giá và điều chỉnh chính sách hiệu quả.
– Hợp tác quốc tế: Chiến lược nhận định tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong khoa học, công nghệ và đổi mới để giải quyết các thách thức toàn cầu và chia sẻ chi phí, rủi ro.
Chiến lược Đổi mới Sáng tạo OECD 2015 cung cấp một khuôn khổ toàn diện và khả thi cho các chính phủ hướng tới tăng trưởng dựa trên đổi mới. Bằng cách tập trung vào kỹ năng, môi trường kinh doanh, hệ thống tri thức, chính sách mục tiêu và quản trị hiệu quả, chiến lược này hướng tới việc trao quyền cho con người và tổ chức đổi mới, thích ứng và phát triển trong một thế giới thay đổi nhanh chóng.