Hà Mạnh Ly (VNTB) Tại Hội nghị Báo chí Toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội ngày 30/12/2015, Thứ trưởng Trương Minh Tuấn nhấn mạnh: ”Bộ chỉ đạo các cơ quan báo chí cần tuyên truyền để đấu tranh phản bác lại thông tin xuyên tạc của thế lực thù địch đối với chủ trương của Đảng và Nhà nước, và những thông tin mang nội dung phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin (CNML) và tư tưởng Hồ Chí Minh.”
Trên thực tế đã cho thấy:
1. Chính các lão thành cách mạng phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin (CNML)
Đó là một thực tế đã được Giáo sư (GS) Trần Phương khẳng định tại Hội nghị Góp ý 2013. Nhà lão thành cách mạng nêu rõ: ”Chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã thất bại, Chủ nghĩa Cộng sản (CNCS) là ảo tưởng.” Cả nước Việt Nam (VN) không ai còn nghi ngờ gì về kiến thức có liên quan đến triết học Mác-Lênin của GS Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ. Kết luận của GS Trần Phương là một thực tế khách quan khoa học như nó vốn có. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hào quang cách mạng tháng 8/1945 tắt lịm dần trong lòng dân tộc, nhất là trong lòng những người từng chiến đấu, hy sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc VN. Xin mọi người yêu nước chân chính dành ít thời gian xem lại video của GS Trần Phương và video lời trối của Lê Hiếu Đằng. Tôi chắc chắn 100/100 cơ quan báo chí VN do nhà nước quản lý – báo lề phải – không tìm đâu ra lý lẽ để phản bác nhận định của GS Trần Phương. Và chắc chắn 100/100 rằng không ai dám nói GS Trần Phương là thuộc thế lực thù địch.
VNTB – Ai phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh |
CNML không những là một trong những nguyên nhân chính khiến Đảng Cộng sản (ĐCS) VN thất bại liên tục trong nhiệm vụ giữ nước và dựng nược kể từ khi giành độc quyền lãnh đạo đất nước ngót 70 năm – 40 năm tại miền Nam và 70 năm tại miền Bắc. Và thực tế còn chỉ ra cho chúng ta thấy chính CNML đang phá nát từng gia đình VN, kể cả sự hoà hợp hoà giải dân tộc, làm suy yếu Tố quốc về mọi mặt, từ chất xám cho đến sự đoàn kết chan chứa truyền thống yêu nước và dựng nước của 4.000 năm lịch sử. Xin chứng minh sau đây.
a- Dũng khí cách mạng đáng khâm phục.
Trong phần trả lời Đại biểu Quốc hội ngày 29/12/2015 về vấn đề ”thu hút nhân tài về phục vụ đất nước,” Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng đã chân thật công khai nhìn nhận một thực trạng là ”ngay chính hai người con trai của ông đi du học nước ngoài cũng không muốn quay về nước sau khi học xong.” Một đại biểu Quốc hội cũng nêu sự việc “12/13 nhà vô địch Olympia không quay về nước sau khi du học.” Sau đó ông Thăng phát biểu: ”Theo ông nghĩ thì gia đình của tất cả những người có mặt trong phiên họp hôm nay – tức các đại biểu Quốc hội – đều có tình trạng như thế.” Thái độ của Thứ trưởng Nguyễn Duy Thăng tỏa sáng dũng khí cách mạng đáng khâm phục khi nêu thẳng SỰ THẬT trong chế độ rất HIẾM sự thật được phát biểu.
Nhưng NÊU THẲNG SỰ THẬT chưa đủ, chúng ta cần phải GIẢI QUYẾT SỰ THẬT. Sau khi Quý vị hỏi riêng các cháu đâu là nguyên nhân chính khiến các du học sinh không muốn về VN, tôi tin rằng câu trả lời của các cháu với quý vị – là phụ huynh của các cháu – phải là những lời chân thật nhất, đáng tin cậy nhất. Cho dù không nhận được câu trả lời trực tiếp từ các cháu, nhưng qua công luận vô tư, chúng ta cũng có thể đồng thuận: Chắc chắn 100/100 không phải vì “thông tin xuyên tạc của thế lực thù địch” mà chính vì các cháu muốn thoát đươc hậu quả tai hại của CNML, của độc đảng với bạo lực cùng sự thiếu vắng TỰ DO và NHÂN QUYỀN tại VN.
b- CNML là kẻ thù của chất xám? Hay ĐCS VN là Thế lực thù địch của Tổ quốc và Dân tộc VN?
Thật vậy, ngày nào ĐCS VN còn chấp nhận ĐCS Trung Quốc (TQ) là anh em thì ngày đó ĐCSVN là thế lực thù địch của Tổ quốc và Dân tộc VN. Trung Cộng (TC), trên thực tế, rõ ràng là kẻ xâm lược VN từ 1974 và tiếp tục sau đó. Nhân dân biểu tình phản đối thì vào tù. Trong khi đó Phi Luật Tân – một đồng minh của Hoa Kỳ – đưa TC ra toà án quốc tế. Hơn 40 thanh niên Phi vượt biển 500 hải lý, cắm trại ngay trên phần đảo đang tranh chấp chủ quyền với TC. Sự việc đó đưa đến một kết luận: “Dân chúng của những quốc gia không có ĐCS độc quyền lãnh đạo thì được tự do yêu nước.”
Từ 1974 cho đến nay ĐCS VN vẫn tiếp tục là anh em với ĐCS TQ, trong đó “bất bình đẳng là nguyên tắc” – tiêu biểu là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch bị lọai khỏi phái đoàn VN do TC yêu cầu. Điều này cho thấy ĐCS VN không biết giữ quốc thể, cam tâm giữ phận đàn em bị khinh bỉ. Những gì có được trong Hội nghị Thành Đô chỉ là những ý muốn của TC. CNML được vận dụng như chất keo sơn gắn liền giữa các ĐCS, trong khi đó, tại mỗi quốc gia CNML là kẻ thù của dân tộc. Nó ngăn đường về của du học sinh, nó thúc giục người VN bỏ nước ra đi tìm tự do, nó thui chột chất xám của người VN chân chính ở trong nước.
Hiện nay, các cháu tuy im lặng, nhưng thái độ mà các cháu lựa chọn không về lại Tổ quốc phải đươc thân nhân của các cháu, cũng như nhân dân VN chân chính, cần nghe rõ bên tai như là tiếng nức nở nghẹn ngào, như nỗi lòng khắc khoải nhớ mong muốn “vinh quy bái tổ” của các cháu.
Nếu những người có trách nhiệm giải quyết tiếp tục im lặng, cho đến khi tất cả chúng ta sẽ cùng nghe các cháu “tức nước vở bờ” cùng gào thét ”Đả đảo CNML,” cũng như ngày xưa thân nhân các cháu từng hô to ”Đả đảo thực dân Pháp-Phát xít Nhật.” Đó là lúc ĐCS VN lộ diện như là “lực lượng thù địch” của các cháu và của cả Tổ quốc và Dân tộc.
Xin quý vị hỏi lại các cháu: “Có phải các cháu muốn xóa bỏ CNML và dân chủ hóa thật sự VN để các cháu về với gia đình và để chất xám về phục vụ Tổ quốc và Dân tộc?”
2. ĐCS VN phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh
Để duy trì CNML, ĐCS VN tiếp tục đàn áp những người bất đồng chính kiến như bắt giam Luật sư (LS) Nguyễn Văn Đài và tiếp tục đàn áp những người họat động cho việc thành lập công đoàn tự do như Đỗ Thị Minh Hạnh. ĐCS VN xem nhẹ khả năng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến TPP, một thỏa ước kinh tế mang lại lợi ích cho Dân tộc. Quyền lợi của Dân tộc về kinh tế và tinh thần – TỰ DO và NHÂN QUYỀN – đều bị lu mờ, nếu không muốn nói là bị ĐCS VN lảng quên. Tiến sĩ (TS) Lê Kiên Thành – con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn – cũng đã phát biểu “vai trò Dân tộc đã bị lu mờ sau khi hy sinh đưa ĐCS VN đến vị trí ngày nay.”
a- ĐCS VN phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM) về tính tối thượng của Tổ quốc–Dân tộc.
Sự nhận định của TS Thành cho thấy, chính ĐCS VN đã phủ nhận tư tưởng HCM chứ không phải lực lượng thù đich. Xin chứng minh ngắn gọn: Lúc nào Chủ tịch HCM (Hồ Chủ tịch) cũng đặt Tổ quốc Dân tộc lên trên Đảng và Nhà nước. Thật vậy, lúc sinh thời hay trước giờ vĩnh biệt, Hồ Chủ tịch vẫn không quên căn dặn – xin đọc Di chúc HCM: “Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn zân, toàn Đảng,” hoặc “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng.” Rõ ràng, Dân tộc và Tổ quốc là yếu tố trên Đảng và Nhà nước.
b- ĐCS VN phủ nhận tư tưởng HCM về phục vụ Tổ quốc – Dân tộc và xóa bỏ CNCS.
Như ta đã rõ: tư tưởng đẻ ra hành động. Nói một cách khác, hành động là biểu hiện của tư tưởng. Bộ Chính trị (BCT), qua Thông báo 151-TB/TW ngày 19/8/1989, thú nhận trước nhân dân là, 20 năm trước, đã làm ngược lại hai ước nguyện của Hồ Chủ tịch thực hiện trên thân xác của mình:
i. Hoả thiêu xác, tức không có hình ảnh lảnh tụ CS trong lồng kính và không có lăng lãnh tụ. Biểu hiện tư tưởng gì qua hành động này? Hồ Chủ tịch muốn xóa bỏ Chủ nghĩa Cộng sản (CNCS) tại VN. BCT phải hành động ngược lại, ướp xác Hồ Chủ tịch, để nói ngược lại với tư tưởng HCM là tiếp tục duy trì CNCS.
ii. Tro có từ hỏa thiêu xác chia 3 phần cho 3 miền Bắc Trung Nam lo chôn trên ngọn đồi. Biểu hiện tư tưởng gì qua hành động này? Rõ ràng Hồ Chủ tịch nói lên tư tưởng trở về với Dân tộc, lấy Tổ quốc và Dân tộc làm mục đích tối thượng. BCT phải hành động ngược lại là không giao tro cho 3 miền Tổ quốc, biểu hiện rõ hành động dùng bạo lực cướp đoạt tài sản tinh thần của nhân dân. ĐCS VN xem thường dân tộc và phủ nhận tư tưởng HCM .
c- ĐCS VN liên tục phục tùng tư tưởng Mao Trạch Đông (MTĐ)/Tập Cận Bình (TCB)
MTĐ biệt phái LQB để khống chế Hồ Chủ tịch không được hữu khuynh trong CCRĐ. Do đó thời điểm và nội dung CCRĐ do Hồ Chủ tịch lưạ chọn không được TC chấp nhận. Song song với CCRĐ, trọng tâm của kế hoạch MTĐ là khống chế quân đội VN được Đại tướng VNG xây dựng theo tư tưởng HCM là vì Tổ quốc và Dân tộc VN chứ không vì ngoại bang – nói theo lối “bônsêvich” là hữu khuynh. Do đó theo tư tưởng HCM, thì cán bộ trong quân đội không nhất thiết xuất thân từ gia đình công nông. Tư lệnh là người quyết định và chính trị viên lo công tác tư tưởng chính tri. MTĐ biệt phái Vi Quốc Thanh (VQT) sang VN để cải tạo theo mô hình TC. Dùng chính ủy thay chính trị viên. Tư lệnh phải phục tùng chính ủy. Quân đội trực tiếp nhận lệnh của Đảng. Người mà TC theo dõi, nghi ngờ, và đề phòng là VNG vì ông là trí thức. VQT còn muốn thanh lọc cán bộ trong quân đội không thuộc gia đình công nông. Lý Ban, Phó của Văn Tiến Dũng, lập danh sách đó. VNG hỏi ý kiến, ”Bác bảo đốt ngay đi, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ” (Trích “Bí mật HCM”). Như vậy, từ năm 1950, TC đã cài đặt bao nhiêu người trong quân đội chúng ta không rõ, nhưng qua đấy, chúng ta mới hiểu tại sao Gạc Ma không được phép tự vệ, tại sao Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch vỗ bàn và bị TC không cho họp Thành Đô. Từ đó càng cho ta hiểu rằng: ”Những ai yêu tổ quốc VN – kể cả đảng viên CS – đều là kẻ thù của TC. Ngược lại, những ai được TC ủng hộ – rất có thể là người phủ nhận tư tưởng HCM – coi nhẹ tổ quốc hơn quyền lợi ngoại bang. Chính vì vậy biểu tình chống TC là bị đàn áp tù đày.
Thực vậy, trong lời chào tại Quốc hội VN, TCB đã gửi lời chào ĐCS VN, Chính phủ VN trước lời chào nhân dân VN. Vai trò dân tộc bị LU MỜ trong lời chào. Đó cũng là bằng chứng rõ rệt cho thấy ĐCS VN và TQ cùng có chung chủ trương đường lối đối với dân tộc. Cả hai ĐCS VN và TQ đều đi ngược tư tưởng HCM.
d- ĐCS VN phủ nhận tư tưởng HCM về tình đoàn kết đừng chia rẻ vì ý thức hệ.
Hồi ký của Vũ Kỳ – thư ký riêng của Hồ Chủ tịch – tiết lộ, những năm cuối đời, Hồ Chủ tịch không viết gì thêm trong bản di chúc ngoài việc kêu gọi các đồng chí thương yêu đoàn kết nhau. Trong những ngày cuối đời, Hồ Chủ tịch đã trải nghiệm được điều gì làm lòng mình tan nát, làm ĐCS VN suy yếu, làm Tổ quốc mất các con yêu quý – cán bộ CM có phẩm chất, làm Dân tộc lầm than: Đó chính là ý thức hệ.
Thật vậy, trong Đại hội 10/1930, Trần Phú, dựa theo ý thức hệ từ Đại hội 6 của Quốc tế Cộng sản (QTCS), phê phán tư tưởng Nguyễn Ái Quốc (NAQ) là ”hữu khuynh” và thẳng tay “thanh trừng NAQ” bằng cách loại bỏ vai trò trung gian đại diện QTCS của NAQ. Kết quả là NAQ bị tập trung cải tạo 2 năm tại Trung tâm Lênin vào tháng 10/1934. Vasilieva viết: ”NAQ phải học tập nghiêm chỉnh trong hai năm và không được đảm nhận một công việc nào khác, và sau khi học xong, chúng tôi sẽ có kế họach đặc biệt cho đồng chí” [Lữ Phương, Chương 4]. Sau đó Hồ Chủ tịch đổi tên là HCM.
Trong Cải cách Ruộng đất (CCRĐ), Hồ Chủ tịch lại để tính ”hữu khuynh” xuất hiện khi phát biểu: ”Thiểu số phục tùng đa số, nhưng với tôi thì việc bắn phụ nữ như bà Nguyễn Thị Năm (NTN), từng có công với cách mạng và có con đang phục vụ cách mạng, là không phải đạo.” Về CCRĐ, Stalin giao cho MTĐ, MTĐ giao cho La Quý Ba (LQB), LQB dùng ĐCS VN – chiếm đa số chống Hồ Chủ tịch trong các biểu quyết, đến mức không bảo vệ nỗi bà NTN. Ngay đường lối CCRĐ của Hồ Chủ tịch cũng không được thi hành. Trong bài viết “Bí mật Hồ Chí Minh,” HoàngTùng ghi lại: Có lần Bác trầm ngâm nói ”Mình đà nói để kháng chiến xong đã mới tiến hành CCRĐ, cứ ép mãi. Mà nếu có làm cũng làm theo cách ta chứ không theo họ.” Nhưng LQB và phe nhóm trong ĐCS VN dùng đa số chủ trương ”phóng tay tàn sát” để tạo nên sự SỢ HÃI. Đó là cơ sở xây dựng XHCN. Chính quyền tồn tại bằng BẠO LỰC và nhân dân tồn tại với SỢ HẢI. Do đó CCRĐ với hơn 150.000 người VN chưa đáng tội chết đã bị giết trong số đó 122.000 người bị oan.
Rồi “chung sống hoà bình” do HCM và Võ Nguyên Giáp (VNG) ủng hộ cũng là thiểu số đối với ”bạo lực cách mạng dùng quân sự giải phóng miền Nam” do TC chủ trương và ĐCS VN đa số thuộc Lê Đức Thọ, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng ủng hộ. Thế là bao nhiêu đảng viên ưu tú bị thanh trừng, kẻ vào tù, người bị khai trừ, có người lưu vong. Uy tín lãnh đạo của Hồ Chủ tịch cũng bị bôi nhọ. “Thuyết hai sai lầm” được rỉ tai trong Đảng Lao Động (ĐLĐ) gán cho HCM hai cái sai: 1945 thỏa hiệp cho Pháp trở lại Đông dương và 1954 ký Hiệp định Genève cho Mỹ đến VN. Hồ Chủ tịch muốn hàn gắn bằng cách mời mọi người thường dùng cơm chiều, có gì không đồng thuận đem ra bàn bạc thay vì ”vạch áo cho người xem lưng.” Hồ Chủ tịch lại tiếp tục dặn dò trong di chúc, và lấy bản thân làm thí dụ BỎ ĐẢNG điển hình, bằng di huấn xác hoả thiêu, dẹp sạch dấu vết CS trên tổ quốc VN. Nhưng sau khi Hồ Chủ tịch mất không bao lâu lại ”thanh trừng nội bộ” qua vụ “Năm Châu Sáu Xứ.” Điều này cho thấy tầm nhìn HCM và quyết định xóa bỏ CNCS vì lợi ích của dân tộc và của những người CS.
Tóm lại chính ĐCS VN bảo vệ CNML bằng bạo lực và cũng chính ĐCS VN phủ nhận tư tưởng HCM để thỏa mãn yêu sách của ĐCS TQ, tiếp tay với đế quốc xâm lược TC để làm suy yếu SỨC MẠNH ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC VN. Qua 4.000 năm lịch sử, LÒNG YÊU NƯỚC CỦA TOÀN DÂN VIỆT là Vũ khí Sát thương CHỐNG MỌI KẺ THÙ – kể cả 1.000 năm nô lệ giặc TÀU hay 100 năm nô lệ giặc TÂY. Vì vậy, ĐCS VN phải thật lòng hối cải, học tập và làm theo đúng tư tưởng HCM. Đó là:
1. Tiến hành đúng Di huấn HCM trong Di chúc: Hỏa thiêu rồi giao tro cho 3 miền để nhân dân Bắc,Trung, Nam an táng trên những ngọn đồi quê hương theo nguyện vọng của Hồ Chủ tịch. Thực thi nghiêm chỉnh và sáng tạo tư tưởng HCM trước tình hình mới: Myanmar dân chủ hóa. Singapore sáng tạo trong quốc phòng với việc phi cơ Mỹ xử dụng phi trường Singapore khi hiệp ước hỗ tương với Mỹ chưa ráo mực. Đường lối này giúp Singapore tiết kiệm ngân sách quốc phòng và nhất là kịp thời phản ứng tự vệ trước sự bành trướng của TC ngày càng hung hản và coi thường công pháp quốc tế.
2. Thi hành càng sớm càng tốt những ý kiến xây dựng cho Tổ quốc-Dân tộc của 127 nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước.
3. Thả tất cả tù nhân bất đồng chính kiến, theo khuyến cáo của Đại sứ Hoa Kỳ, tạo thuận lợi cho VN trong việc hội nhập TPP và trong việc đưa dân tộc vào vận hội mới. Đó là chế độ DÂN CHỦ, ĐA ĐẢNG và PHÁP TRỊ, phát huy sức mạnh toàn dân VN tiếp nối truyền thống dựng và giữ nước của 4.000 năm lịch sử. Đó là VŨ KHÍ SÁT THƯƠNG VÔ ĐỊCH của DÂN TỘC VN qua mọi thời đại.
* Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả