Thạch Thảo (VNTB) Rõ ràng, chính phủ và người dân Việt Nam không nên được ru ngủ bằng ý nghĩ rằng, sự suy giảm nợ xấu hiện nay là kết quả thực chất của cải cách ngân hàng.
Trợ giảng về về vấn đề chính sách công tại trường Crawford (Đại học Quốc gia Úc), Giáo sư Suiwah trong một bài viết trên Eastasiaforum đã cho rằng, không nên tin vào việc cải cách tài chính tại Việt Nam.
Ông dẫn dụ câu châm ngôn trong ngành kiến trúc, rằng “hình thức sau chức năng”. Trong khi quá trình cải cách kinh tế (đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng) của Việt Nam, cấu trúc này lại đi ngược lại – “chức năng sau hình thức“.
Kể từ tháng 3 năm 2012 khi chính phủ Việt Nam công bố tiến trình tái cơ cấu ngân hàng theo hướng “một con đường”, và đến nay, đã giảm 15/37 ngân hàng trong nước, bao gồm cả 9 “ngân hàng yếu kém”.
Tổng công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) được thành lập vào tháng 7 năm 2013 và, theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tỷ lệ nợ xấu (nợ xấu) của các ngân hàng Việt Nam đã giảm từ 17,21% trong tháng 9 năm 2012 xuống còn 3,72% vào cuối tháng 6 năm 2015.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam |
Nhưng sáp nhập ngân hàng chỉ giải quyết vấn đề trước mắt, nhất là đối với những ngân hàng phá sản. Khả năng tồn tại lâu dài của ngành ngân hàng phụ thuộc vào lợi nhuận khách hàng. Trong trường hợp của Việt Nam, các khách hàng chủ yếu là các tập đoàn lớn (13 tập đoàn kinh tế) và các doanh nghiệp nhà nước khác (DNNN).
Cố gắng bán một phần (hoặc tất cả) các DNNN lớn và các tập đoàn đã không được thành công. Vào tháng 9 năm 2014, chính phủ thất bại trong việc bán phần lớn cổ phần ra công chúng đối với tập đoàn dệt may Vinatex, bất chấp những lợi ích dự kiến của thỏa thuận TPP đối với ngành dệt may của Việt Nam. Những nỗ lực để bán 3,5% cổ phần của Việt Nam Airlines trong tháng 11 năm 2014 vắng bóng suất ngoại và các cổ phiếu được đưa lên bởi các ngân hàng Việt Nam. Đối với nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản, các gói kích thích kinh tế mới nhất của chính phủ để khơi thông thị trường bất động sản được coi là quá nhỏ, quá muộn.
Cho đến khi có tiến bộ thực sự với việc cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, khu vực ngân hàng vẫn sẽ không có khả năng thực hiện nhiệm vụ điều chuyển vốn từ người tiết kiệm có giá trị đến các nhà đầu tư hiệu quả.
Việc VAMC được thành lập vào năm 2013 với nhiệm vụ trao đổi nợ xấu để đổi lấy trái phiếu đặc biệt của VAMC (mua 100% nợ giá trị trên sổ sách của ngân hàng thông qua hình thức phát hành trái phiếu trong thời hạn 5 năm). Các ngân hàng đã được phép sử dụng những trái phiếu thế chấp đối với các khoản vay từ NHNN qua hình thức tái chiết khấu, và ngân hàng vẫn “sở hữu” những nợ xấu. Nói cách khác, chương trình này cung cấp thanh khoản tạm thời cho các ngân hàng và loại bỏ nợ xấu từ bảng kế toán ngân hàng trong một thời gian. Nhưng các trái phiếu không phải là một phương pháp đối với các ngân hàng mất khả năng tái vốn hóa.
Trong tháng 3 và tháng 8 năm 2015, các hoạt động của VAMC tiếp tục được mở rộng.
Các ngân hàng có 10 năm để trao đổi các trái phiếu đặc biệt, liên quan đến “nợ xấu” của họ. Một khung thời gian dài hơn cho các trường hợp đặc biệt. Ngoài các chương trình hiện có của trái phiếu đặc biệt, VAMC bây giờ có thể hoán đổi nợ xấu có giá trị thị trường với trái phiếu thông thường. Theo đó, các ngân hàng được giải phóng khỏi nợ xấu và VAMC giảm sự rủi ro tín dụng của các nợ xấu (có giá trị thị trường).
Nhưng điều nêu trên chưa đủ để nhận định rằng, chức năng bổ sung thu mua nợ xấu này thực sự hoạt động tốt. Giá trị thị trường (mà có thể là không) sẽ phải được đàm phán giữa VAMC và các ngân hàng. Tùy thuộc vào giá cả thương lượng được, ngân hàng nhiều hơn sẽ bị vỡ nợ hoặc VAMC sẽ cần rất nhiều chi phí để nhận các rủi ro tín dụng – một vấn đề đối với chính phủ (liên quan mức độ nợ công).
Việc bố trí ‘trái phiếu đặc biệt “không phải là cách thường được sử dụng bởi các công ty quản lý tài sản ở chính phủ các nước khác. Tuy nhiên, nó dường như là phương cách kéo dài thời gian cần có cho các nhà chức trách, khi niềm hy vọng tăng trưởng kinh tế sẽ được cải thiện và các ngân hàng có thể giảm dần nợ xấu.
Moody’s, trong tháng 11 năm 2015 đã duy trì triển vọng ổn định đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, đã giải thích rằng điều này hiện hữu trên cơ sở cải thiện điều kiện kinh tế nói chung. Nhưng bên cạnh đó là cái nhìn tiêu cực về lợi nhuận và vốn hoá trong lĩnh vực ngân hàng.
Dọn dẹp nợ xấu từ hệ thống ngân hàng và làm cho nó hoạt động trở lại như một cách đi hiệu quả, tiết kiệm và đầu tư có thể sẽ là một quá trình kéo dài. Điều này đặc biệt trong trường hợp các lĩnh vực ngân hàng gắn chặt với quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn kinh tế chủ đạo. Một số quỹ công chúng có thể sẽ được yêu cầu để tái cấp vốn cho các ngân hàng và điều này cần phải được tính vào dự toán ngân sách và nợ trung hạn của Việt Nam.
Một lưu ý cấp bách hơn liên quan đến quá trình cải cách kinh tế tại Việt Nam là sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng, liên quan đến quyết định của chính phủ Việt Nam trong việc nâng quyền sở hữu nước ngoài ở các doanh nghiệp Việt từ 49% lên 60%, đặc biệt là cho rằng, đã có ngân hàng 100% vốn sở hữu nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Rõ ràng, chính phủ và người dân Việt Nam không nên được ru ngủ bằng ý nghĩ rằng, sự suy giảm nợ xấu hiện nay là kết quả thực chất của cải cách ngân hàng.