Khánh An dịch
(VNTB) – Cải cách chính trị năng động có thể giải quyết xung đột ý thức hệ trong nội bộ – và giúp Việt Nam khác biệt với Trung Quốc.
Lê Vĩnh Triển
Ngày 15 tháng 4 năm 2021
Đổi mới, cải cách kinh tế của Việt Nam từ cuối những năm 1980, đã tạo ra cơ hội kinh tế giúp hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo. Tuy vậy, sau ba thập kỷ tăng trưởng kinh tế, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với những hậu quả liên quan đến suy thoái môi trường, bất bình đẳng và thất thoát nguồn lực nhà nước do tham nhũng. Hơn nữa, việc phụ thuộc vào vốn đầu tư nước ngoài mà không tận dụng được tác động lan tỏa của công nghệ và quản lý đã không thể làm Việt Nam giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào lao động rẻ và không có tay nghề. Tình trạng nghiêm trọng này càng trở nên trầm trọng hơn do thay đổi nhân khẩu học, chủ yếu là do dân số già đi. Nhiều người lo ngại rằng bẫy thu nhập trung bình sẽ khiến Việt Nam tụt lại phía sau khi quá trình đổi mới thúc đẩy các nền kinh tế đang phát triển khác cạnh tranh trên toàn cầu trong thời đại thông tin.
Lấy cảm hứng từ những câu chuyện phát triển của các quốc gia Đông Á đã được hưởng những lợi ích của việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ, có nhiều ý kiến chính thức cũng như không chính thức cho rằng Việt Nam cần một Đổi mới thứ hai, xoay quanh cải cách chính trị. Nếu các thể chế và thông lệ chính trị mới được phép xuất hiện và dẫn đến các cách thức điều hành mới và các ý tưởng chính sách mới, thì nền kinh tế có thể chuyển sang các hoạt động cởi mở hơn và đổi mới hơn dựa trên khoa học và công nghệ. Bây giờ là lúc thích hợp để đặt câu hỏi làm thế nào hệ thống chính phủ hiện tại có thể mở ra một kỷ nguyên chuyển đổi kinh tế mới khi mà rất nhiều nhóm hàng đầu hưởng lợi từ mô hình cũ dựa trên khai thác lao động và tài nguyên thiên nhiên.
Cải cách thể chế đang được tiến hành nhưng thường chỉ ở cấp hành chính, được thúc đẩy bằng cách đơn giản hóa các quy định và luật để tránh chồng chéo và trùng lặp. Các khái niệm như tam quyền phân lập (tức là ba nhánh của chính phủ) hay xã hội dân sự vẫn bị coi là cấm kỵ đối với chính phủ. Mặc dù khái niệm dân chủ đã được chính thức đề cập như một trong những ưu tiên chiến lược của đất nước – cùng với “công bằng” và “văn minh” – “dân chủ hóa” vẫn là một thuật ngữ nhạy cảm về mặt chính trị vì người ta cho rằng (và lo sợ) rằng sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị và do đó đe dọa sự ổn định của hệ thống độc đảng của Việt Nam. Chính phủ tin tưởng chắc chắn rằng chế độ thống nhất chính trị (ở bề ngoài) hiện nay là ưu việt và không thể thay đổi.
Trong những năm 1970 và 1980, các nước dân chủ như Hàn Quốc và Đài Loan đã cho thấy đa nguyên chính trị có thể vượt qua các nút thắt kinh tế như thế nào. Đồng thời, các mô hình dân chủ xã hội được tìm thấy ở các nước Scandinavia (gồm Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và một số nước khác) cho thấy các giá trị xã hội chủ nghĩa và hệ thống dân chủ tương thích và thậm chí hiệu quả như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên, nhiều nhà chức trách Việt Nam cho rằng nước ta có một bối cảnh lịch sử, chính trị và văn hóa độc đáo mà hầu như không có mô hình bên ngoài nào có thể áp dụng được. Thật vậy, những trí thức cực đoan suy đoán rằng chính quyền cộng sản Việt Nam không có mô hình nào ngoài mô hình do Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện.
Điều này đã dẫn đến sự chia rẽ về ý thức hệ. Một bên chỉ chấp nhận mô hình hiện tại và luôn chỉ ra những khiếm khuyết và thất bại của các nước dân chủ. Phe còn lại thì bênh vực mô hình chính trị đa nguyên bị các đối thủ ý thức hệ gạt bỏ là không phù hợp với Việt Nam. Có thể học được gì từ cuộc tranh luận này?
Quan điểm tĩnh so với động về dân chủ hóa
Có thể nói, cả hai bên của cuộc tranh luận ý thức hệ này đều có những hạn chế trong suy nghĩ. Có nghĩa là, cả hai đều coi những thay đổi về thể chế là một quá trình tĩnh hơn là động. Vì Việt Nam là một quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi, nên việc cải cách thể chế chính trị mang tính thích ứng là cần thiết để duy trì sự vận động hướng tới một hệ thống dân chủ tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế – như đã thấy trong con đường lịch sử của rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Đồng thời, các mô hình dân chủ không phải là không có sai sót, như việc bầu các nhà lãnh đạo và đảng phái cực đoan ở một số nước trên thế giới trong những năm gần đây đã chứng minh (ví dụ như Hoa Kỳ, Brazil và một số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu).
Như vậy, người dân Việt Nam phải chấp nhận trách nhiệm chung để cân bằng quyền lực và liên tục điều chỉnh hướng đi. Dân chủ là một giá trị phổ quát được chấp nhận bởi vì, ở cấp độ thuần túy nhất, dân chủ là hệ thống tốt nhất để đảm bảo một xã hội công bằng và bình đẳng thông qua “chính phủ của dân, do dân, vì dân,” như Abraham Lincoln đã nói.
Về bản chất, chính phủ là và cần là hình ảnh phản chiếu lợi ích của người dân nhằm bảo vệ quyền tham gia vào đời sống chính trị và phục vụ công chúng của bất kỳ cá nhân nào. Trong một quốc gia công bằng và bình đẳng, nhà nước bảo vệ các giá trị và thể chế dân chủ. Để đạt được lý tưởng này, xã hội phải quyết tâm và kiên định vượt qua những rào cản trên con đường đi tới dân chủ và thực hiện điều đó bằng các phương tiện hòa bình, hiệu quả và công bằng.
Do đó, một cách suy nghĩ năng động về cải cách quản trị là chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia vào các công việc của đất nước, dù trực tiếp hay gián tiếp. Trên con đường đó, mọi quốc gia văn minh tiến bộ dựa trên hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và kinh tế của mình. Tình trạng khăng khăng giữ hệ thống hiện tại (bao gồm cả những nhóm lợi ích hiện đang được hưởng lợi từ nó) và việc áp dụng cứng nhắc một mô hình nhất định dựa trên những hệ tư tưởng thiếu uyển chuyển về kinh tế và các mối quan hệ nhà nước-xã hội là một cách tiếp cận tĩnh, tự đánh bại chính mình và không thể phát triển, không có khả năng tạo ra sự linh hoạt cần thiết để hiện đại hóa các thể chế và cơ cấu kinh tế. Ở Việt Nam, cả chính phủ và các đối thủ kiên quyết của họ đều rơi vào hai thái cực trái ngược nhau.
Con đường thiết thực để tiến lên là sự hiểu biết dựa trên sự đồng thuận về tiến bộ, công nhận tính đa nguyên của các nhóm lợi ích và cung cấp không gian biểu đạt hiệu quả mà không gây ra các hậu quả tiêu cực. Trong hoàn cảnh như vậy, tình trạng bế tắc của tư duy ý thức hệ có thể được phá vỡ và tất cả những ý tưởng mới đều có thể được xem xét. Cách tiếp cận này giải quyết các mâu thuẫn đặc trưng của hệ tư tưởng, hướng cuộc tranh luận từ việc nên chọn mô hình này hay một mô hình khác để giải quyết vấn đề này đến cách tạo ra một hệ thống mới kết hợp các khía cạnh được cho là hữu ích và công bằng. Kiểu thảo luận hiệu quả này giúp các bên nói chuyện với nhau một cách trung thực và hiệu quả hơn – một lực có tính tạo ổn định tập trung vào lợi ích chung hơn là các ý thức hệ được bảo vệ và các nhóm lợi ích chỉ lo cho quyền lợi của mình. Các vấn đề liên quan đến tam quyền phân lập, xã hội dân sự và khả năng đa nguyên chính trị cần được thảo luận với tinh thần cởi mở và thông cảm lẫn nhau dựa trên thực tiễn của Việt Nam. Các trí thức Việt Nam và các chủ thể nhà nước có thể chia sẻ tầm nhìn của họ một cách toàn diện về cả những bất ổn và cơ hội trong các nền dân chủ cũng như quá trình dân chủ hóa nói chung.
Các hệ quả liên quan đến Trung Quốc
Bất chấp xu hướng tiến bộ trong việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ trên thế giới, nhà nước cộng sản Trung Quốc ngày càng củng cố quyền lực chính trị thông qua tính chính đáng do các thành tựu kinh tế mang lại (một cách tiếp cận đầy khiếm khuyết). Trung Quốc cũng đang tận dụng lợi thế toàn cầu về quy mô độc nhất của mình, một lựa chọn không có ở Việt Nam. Trong các nỗ lực định vị toàn cầu của Trung Quốc, trí thức Trung Quốc – dù vô tình hay cố ý – buộc phải tuân thủ các chỉ thị tư tưởng nhân danh lòng yêu nước. Họ thường chọn ủng hộ các nỗ lực của chính phủ nhằm củng cố quyền lực nhà nước và hạn chế sự tham gia của công chúng vào các vấn đề chính sách và chính trị. Những lời kêu gọi hóa dân chủ khiêm tốn trong bối cảnh Trung Quốc dễ dàng bị bóp nghẹt thông qua việc kiểm soát thông tin và hạn chế tổ chức chính trị và hoạt động liên quan.
Do đó, sự ổn định của Trung Quốc phụ thuộc vào việc hạn chế sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị và sự kiểm soát thông tin của chính phủ đối với người dân, với tính chính danh của đảng chủ yếu đến từ nhiều thập niên tăng trưởng kinh tế và gần đây là thông qua các cuộc tấn công địa chính trị (đặc biệt là ở Biển Đông, Hồng Kông, và Đài Loan). Cách tiếp cận này hiện có thể ổn định môi trường chính trị trong nước nhưng lại làm tăng khả năng bất ổn ở nước ngoài. Như vậy, nhà nước phải liên tục tăng cường kiểm soát xã hội và chính trị trong nước để ngăn chặn tình trạng suy giảm quyền lực hoặc hoặc niềm tin là quyền lực của nhà nước đang bị đe dọa.
Việt Nam không thể và cũng không cần phải rơi vào tình thế bấp bênh và căng thẳng như vậy.
Ngược lại, với việc Việt Nam đã mở cửa và chấp nhận con đường hướng tới dân chủ, thì trí thức, chính quyền và người dân có thể cùng nhau chấp nhận các phẩm chất của sự tham gia của công dân như một nguyên tắc quản lý trong đó quyền lực của nhân dân là tối thượng. Khi đó, trí thức Việt Nam và chính phủ sẽ giành lại lợi thế riêng của mình – lợi thế của thảo luận cởi mở và thiết thực, xem xét mọi cơ hội khả thi. Điều này sẽ làm Việt Nam khác với Trung Quốc. Cách tiếp cận quyền lực nhà nước của hai quốc gia hoàn toàn khác nhau, được thúc đẩy bởi nền tảng lịch sử, chính trị và văn hóa khác nhau, như chính phủ đã nêu.
*Tiến sĩ Lê Vĩnh Triển là giảng viên cao cấp tại Trường Cán bộ, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguồn: The Diplomat