VNTB – Hà Nội không coi ‘người Thượng’ là cư dân bản địa

VNTB – Hà Nội không coi ‘người Thượng’ là cư dân bản địa

Hoàng Mai

 

(VNTB) – ‘Người Thượng’ là cách gọi chung trước đây theo nghĩa người dân bản địa sống ở vùng đất cao nguyên.

 

Dân tộc bản địa (indigenous peoples) và người thiểu số (minorities). Chính quyền trung ương ở Hà Nội nói rằng người Thượng thuộc nhóm dân tộc thiểu số, so với người Kinh, tức người Việt. Bản đồ địa chính trị của các sắc dân cũng được Hà Nội ‘vẽ lại’, theo đó dù là dân tộc bản địa, bản xứ hay thiểu số, tất cả đất đai và quyền tự do lựa chọn chính trị đều chịu giới hạn bởi một đảng cầm quyền duy nhất là đảng cộng sản Việt Nam.

Những vị được gọi là ‘dân cử’ hiện diện ở các phiên họp Quốc hội, dù là sắc tộc nào đi nữa thì đều phải buộc thỏa mãn một tiêu chí chung mang tính bắt buộc: đảng viên đảng cộng sản Việt Nam; và lẽ đó nên các vị đại biểu của dân thật ra mang ý nghĩa là những quân cờ chính trị của đảng cầm quyền.

Một khi Hà Nội không nhìn nhận các sắc tộc theo ý nghĩa là “cư dân bản địa”, nên những xáo trộn trong chuyện ‘đồng hóa’ đã tạo nên sự xung đột dai dẵng, đối kháng ngấm ngầm lẫn công khai.

So sánh là khiên cưỡng, nhưng trong chừng mực nào đó thì có lẽ Hà Nội cần tham khảo bài học của Canberra, khi Úc đang đứng trước bước ngoặt lịch sử với việc Thượng viện nước này chấp thuận đề xuất của chính phủ tổ chức cuộc trưng cầu dân ý trong khoảng thời gian 6 tháng tới về việc dành cho người bản địa quyền cùng tham gia quyết định chính sách của chính quyền.

Hiến pháp hiện hành ở Úc có hiệu lực từ năm 1901 và trong đó không hề đề cập gì đến cộng đồng người bản địa. Mãi đến năm 1967, các quyền con người cơ bản của người bản địa mới được luật pháp xác nhận. Hiện có khoảng 1 triệu người bản địa trong tổng số khoảng 26 triệu dân ở Úc.

Bản chất vấn đề ở đây là nỗ lực khắc phục tình trạng phân biệt đối xử đối với người bản địa, đánh giá đúng và coi trọng vai trò và ảnh hưởng lịch sử của người bản địa đối với sự hình thành và phát triển đến nay của quốc gia này.

Người bản địa, theo công ước quốc tế thì đó là những quần thể cư dân đặc biệt được bảo vệ theo luật pháp quốc tế hoặc quốc gia, là có một tập hợp các quyền cụ thể dựa trên các mối quan hệ lịch sử của họ vào một lãnh thổ đặc biệt, và bản sắc văn hóa, lịch sử của họ từ các quần thể khác.

Các luật được dựa trên kết luận rằng một số người dân bản địa rất dễ bị khai thác, ra bên lề và áp bức bởi các quốc gia được hình thành từ các quần thể thuộc địa, hoặc do chi phối chính trị, các nhóm dân tộc khác nhau.

Văn bản quốc tế nổi tiếng nhất về người bản địa là Công ước về Bộ lạc và Dân tộc Bản địa do Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra vào năm 1989 còn được biết đến như Công ước ILO 169, hoặc dạng viết tắt C169.

Công ước này là tiền thân của Tuyên bố về Quyền của người Bản địa (Declaration on the Rights of Indigenous Peoples) do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua trong phiên thứ 61 tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở thành phố New York vào ngày 13 tháng 9 năm 2007. Nó được ban hành để hướng dẫn các quốc gia thành viên có chính sách thích hợp để tôn trọng các quyền tập thể người bản địa, chẳng hạn như văn hóa, bản sắc, ngôn ngữ, tiếp cận việc làm, y tế, giáo dục, và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Với quá trình Nam tiến của tiền nhân, diện tích bản đồ Việt Nam được mở rộng dần, và điều này cho thấy vấn đề ‘người bản địa’ là một thực tế cần chấp nhận, không nên tiếp tục ‘đánh tráo’ bằng các khái niệm của hô hào “đại đoàn kết dân tộc”; vì ở đây còn là sự tôn trọng các tập tục văn hóa, đời sống tinh thần cùng những quyền con người nói chung của ‘người bản địa’.


CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)