Việt Nam Thời Báo

VNTB- Những thách thức an ninh khu vực của Việt Nam

Hà Anh Tuấn, Observer Research Foundation, ngày 08/02/2016

(Bản dịch của Vũ Quốc Ngữ)

(VNTB) – Câu hỏi đặt ra là tình hình ở Biển Đông sẽ như thế nào trong tương lai. Đưa ra dự đoán về Biển Đông là đầy rủi ro vì các kết quả trong tương lai có thể sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào các biến phát triển. 



Trong vài năm qua, Biển Đông đã nổi lên như là điểm nóng xung đột ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tranh chấp lãnh thổ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thật khó giải quyết bởi những nước có quyền lợi ở Biển Đông, bao gồm các quốc gia có yêu sách về lãnh hải và lãnh thổ ở đây và các cường quốc ngoài khu vực – vẫn bất đồng nghiêm trọng về quyền chủ quyền và pháp lý trong phạm vi đường hàng hải quan trọng. Điều này bao gồm các câu hỏi về tự do hàng hải và hàng không, và khả năng áp dụng của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước năm 1982 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).

Các động thái ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong khu vực là trung tâm của tất cả các sự cố lớn gần đây. Tàu thực thi luật pháp Trung Quốc đã tiến hành tuần tra thường xuyên ở Biển Đông, làm gián đoạn hoạt động kinh tế của các quốc gia ven biển Đông Nam Á hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của họ (EEZ), thậm chí đuổi ngư dân khu vực Đông Nam Á từ các khu vực đánh cá truyền thống của họ. Đối mặt với sự gia tăng gây hấn của Trung Quốc, Philippines đã đệ đơn kiện tại một tòa án trọng tài quốc tế tại The Hague vào năm 2013. Tòa án đã đưa ra quyết định cuối cùng của mình vào ngày 12 tháng 7 năm 2016, bác bỏ hầu hết các yêu sách của Trung Quốc, thậm chí chỉ trích việc xây dựng đảo nhân tạo trong quần đảo Trường Sa. Phán quyết này đã được coi là có tác động sâu sắc đến thủ tục giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.


Những phát triển đáng kể ở Biển Đông

Sự kiện mới nhất là việc Trung Quốc bắt đầu xây dựng 7 đảo nhân tạo ở Biển Đông. Từ đầu năm 2014, Trung Quốc bắt đầu chiến dịch quy mô lớn xây dựng đảo ở 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa mà nó chiếm hữu bất hợp pháp. Đồng thời, Bắc Kinh đã bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn trên các đảo này. Đến cuối năm 2015, tổng diện tích đảo mới xây gấp 20 lần so với tổng diện tích mà các bên tranh chấp khác như Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam nắm giữ trong bốn thập kỷ trước đó. Sau khi hoàn thành việc xây dựng đảo, Bắc Kinh đã bắt đầu lắp đặt thiết bị cho các mục đích kép, trong đó có sân đỗ trực thăng, bãi đáp máy bay, radar giám sát, cảng nước sâu, bệnh viện, và hải đăng. Nó cũng đã tiến hành xây dựng các cấu trúc quân sự để chứa vũ khí, tên lửa và bến đỗ cho tàu chiến.

Những nhà quan sát hàng hải coi việc xây dựng đảo nhân tạo quy mô lớn của Bắc Kinh là một thách thức nghiêm trọng đối với an ninh khu vực. Chỉ có Trung Quốc thực hiện việc xây dựng ở Biển Đông, nhưng quy mô của việc xây dựng này vượt xa tất cả các nỗ lực khác của các quốc gia trong khu vực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên các đảo được giữ ở Biển Đông. Điều đáng lo ngại cho các nước láng giềng của Trung Quốc là Bắc Kinh dường như biến các đảo này thành các căn cứ cho lực lượng hải quân (PLAN) và không quân (PLA-AF) của Quân Giải phóng Trung Quốc (PLA). Ngoài việc mở rộng hoạt động của PLA-AF trong khu vực Đông Nam Á, khả năng giám sát tại quần đảo Trường Sa sẽ cho phép PLAN thực hiện những hoạt động ảnh hưởng đến tự do hàng hải của hải quân của các nước khác trong khu vực. Những nhà hoạch định chính sách ở khu vực tin rằng các tiền đồn quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ đặt Bắc Kinh vào vị thế thuận lợi so với các cường quốc khác như Mỹ và Nhật Bản, những nước này sẽ vấp phải khó khăn trong việc hỗ trợ các quốc gia Đông Nam Á nhỏ hơn trong đối phó với các cơ quan thực thi pháp luật của Trung Quốc ở Biển Đông trong tương lai.


Phương pháp chiến lược của Việt Nam

Các hoạt động xây dựng đảo liên quan mật thiết đến vấn đề pháp lý xung quanh việc tranh chấp. Đối với nhiều nhà quan sát khu vực, Tòa án Thường trực của phán quyết trọng tài của thuộc Phụ lục VII của UNCLOS như một phản kháng đối với yêu cầu pháp lý của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong khi Bắc Kinh từ chối quyết định của tòa án bằng việc áp dụng ba không: không công nhận tòa án, không công nhận phán quyết và không sử dụng phán quyết như là cơ sở trong các đàm phán tương lai trong khi các chuyên gia hàng hải coi phán quyết như là một sự phủ nhận rõ ràng về tư thế của Bắc Kinh ở biển Đông. Philippines, dưới chính phủ mới được bầu của Tổng thống Duterte, tránh thể hiện việc ăn mừng kết quả mà phán quyết mang lại trong khi Việt Nam né tránh chỉ trích lập trường của Trung Quốc ở Biển Đông.

Trong khi Hà Nội quan ngại việc xây dựng đảo bởi Trung Quốc ở Trường Sa, nó lựa chọn không bình luận chính thức về phán quyết. Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc thăm Bắc Kinh một vài tuần sau khi Tòa án ra phán quyết, hội đàm với người đồng cấp Trung Quốc Lý Khắc Cường. Kết quả của cuộc họp là Bắc Kinh và Hà Nội đồng ý “trao đổi chân thành và thẳng thắn quan điểm về các vấn đề trên biển” và quản lý khác biệt của hai bên trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và “bảo vệ sự ổn định.

Một số học giả Việt Nam cho rằng phán quyết của tòa án là có lợi cho quản lý và giải quyết xung đột ở Biển Đông, vì nó làm giảm đáng kể phạm vi không gian của các tranh chấp lãnh thổ. Quyết định của tòa án rằng không có cấu trúc nào ở trên quần đảo Trường Sa được hưởng đặc quyền kinh tế và rằng đường chín gạch ngang của Trung Quốc là không có cơ sở pháp luật giải quyết đáng kể nhiều nguyên tắc tranh chấp. Cùng với việc xác định mức độ của sự chồng chéo giữa các vùng EEZ giữa các nước trong khu vực, các chuyên gia nói rằng, quyết định này cũng tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán phân định ranh giới trên biển. Tranh chấp chủ quyền trên các cấu trúc ở Biển Đông có thể được thương lượng giải quyết trong một quá trình riêng biệt. Quan trọng hơn, phán quyết của tòa án làm tăng cơ hội cho các nước trong khu vực để tìm khu vực hợp tác thiết thực ở Biển Đông.

Điều này không có nghĩa là Hà Nội phụ thuộc hoàn toàn vào luật biển để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Trong vài năm qua, Việt Nam đã cải thiện khả năng phòng thủ của mình bằng cách mua sáu tàu ngầm và một số tàu chiến, cũng như tăng cường quan hệ an ninh với các nước lớn trong đó có Mỹ và Nhật Bản. Việt Nam thậm chí còn được cho là đã lặng lẽ bắt đầu nạo vét trên một rạn san hô trong đường thủy chiến lược và tăng cường một số hòn đảo với hệ thống phóng pháo phản lực di động có khả năng tấn công lực lượng của Trung Quốc trên tuyến đường thương mại quan trọng. Trong khi Việt Nam không có tuyên bố chính thức về vấn đề này thì hoạt động như vậy, nếu thực sự có, không thể so sánh với những gì Trung Quốc đã làm trong khu vực cả về quy mô và tính chất phòng thủ-tấn công.


Những thách thức trong tương lai

Câu hỏi đặt ra là tình hình ở Biển Đông sẽ như thế nào trong tương lai. Đưa ra dự đoán về Biển Đông là đầy rủi ro vì các kết quả trong tương lai có thể sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào các biến phát triển. Ở cấp độ hệ thống, triển vọng an ninh toàn cầu, xu hướng chính trị và kinh tế, và phát triển thương mại sẽ có một tác động sâu sắc đến các mục tiêu quốc gia về chính sách đối ngoại, các ưu tiên, và các tùy chọn, do đó ảnh hưởng đến lợi ích của họ và việc quản lý các tranh chấp hàng hải. Một số tổ chức nghiên cứu kinh tế đã dự báo rằng nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng trong những năm tới, với các nền kinh tế lớn, cụ thể là Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tích cực. Một kịch bản như vậy sẽ cho phép các nước này phải chú ý nhiều hơn đến các vấn đề an ninh toàn cầu, bao gồm tranh chấp hàng hải ở Biển Đông.

Tuy nhiên, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, sự bất ổn ở Syria và Trung Đông, và làn sóng di cư tiếp tục sang châu Âu có thể buộc các nước Tây đối mặt với vấn đề trực tiếp ảnh hưởng đến an ninh quốc gia của họ. Một số người cho rằng với Brexit và xu thế hướng nội của Donald Trump, một số quốc gia EU muốn tập trung vào đối nội và thậm chí rút khỏi EU. Điều này có nghĩa là giảm sự cam kết đối với thương mại và các vấn đề toàn cầu. Quan trọng hơn, việc tiếp tục cô lập của phương Tây sẽ làm trầm trọng thêm sự bất ổn về vai trò của các tổ chức đa phương tại các nước khác. Trung Quốc sẽ thấy những phát triển đó như cơ hội của nó để có được lợi thế nhiều nhất trong việc đàm phán tranh chấp hàng hải.

Ở cấp quốc gia, những năm tới sẽ rất quan trọng cho việc định hình chính sách đối ngoại của các quốc gia Đông Nam Á. Chính sách của Mỹ ở Biển Đông dưới thời Trump vẫn không thể đoán trước. Nhưng triển vọng kinh tế thay đổi cho Mỹ, vai trò của các chính trị gia Mỹ có ảnh hưởng khác, và hành vi của các quốc gia khác ở Biển Đông là những yếu tố khác có thể sẽ ảnh hưởng đến Biển Đông. Trong hoàn cảnh đó, rất khó để nói rằng nếu chính quyền của Trump sẽ theo đuổi một chính sách can thiệp mạnh ở Biển Đông trong những năm tới.

Năm 2017 cũng là thời điểm quan trọng của Trung Quốc khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dự kiến ​​tổ chức Đại hội 19. Tập Cận Bình đã nỗ lực để củng cố quyền lực của mình trong hệ thống chính trị Trung Quốc nhằm tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình, nhưng ông ta phải đối mặt với những thách thức đáng kể về kinh tế và chính trị trong nước. Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào ở Biển Đông trong những năm tới phụ thuộc vào triển vọng kinh tế trong tương lai của Trung Quốc, đánh giá của chính phủ Trung Quốc về những thách thức và cơ hội mới ở Biển Đông, sự phối hợp giữa các cơ quan khác nhau của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tập, và các mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh và chính sách đối ngoại.

Trong tương lai, khu vực Đông Nam Á có thể sẽ tiếp tục phát triển mà sẽ ảnh hưởng đến tình hình ở Biển Đông. Điều quan trọng nhất là sự thay đổi căn bản trong mối quan hệ của Philippines với Trung Quốc. Dấu hiệu cho thấy Tổng thống Duterte đang cố gắng một sự thay đổi cơ bản trong cách tiếp cận chính trị của Manila với Bắc Kinh, từ lập trường cứng rắn trước đây dưới thời cựu Tổng thống Aquino sang tư thế ‘hợp tác’ nhiều hơn. Duterte dường như đã hạ cấp quan hệ quân sự Mỹ-Philippines để đổi lấy thỏa thuận hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Trong một chuyến thăm gần đây tới Bắc Kinh, ông ta chỉ nói qua vấn đề Biển Đông và tập trung vào đảm bảo một thỏa thuận đánh cá xung quanh bãi cạn Scarborough.

Đánh giá về lập trường của Manila ở Biển Đông sẽ có một tác động đáng kể đến sự phát triển của khu vực. Philippines là một đối thủ lên tiếng mạnh nhất về chính sách biển của Trung Quốc và dự kiến ​​sẽ trở thành chủ tịch luân phiên của ASEAN, cũng như là điều phối viên của ASEAN trong quan hệ Trung-ASEAN. Việc Bắc Kinh và Manila có quan hệ nồng ấm có thể buộc các quốc gia ven biển ở Đông Nam Á phải tìm cách xoa dịu quan hệ với Trung Quốc.

Điều này có thể thay đổi chính sách an ninh trong khu vực Đông Nam Á của Mỹ. Dưới chính quyền Obama, Washington đã áp dụng chiến lược ở Biển Đông mà bị Trung Quốc nhìn nhận là cách để kiềm chế Trung Quốc. Thực sự là một loạt các sự kiện ở Biển Đông, liên quan đến tàu Mỹ, bao gồm cả tàu Impeccable Incident trong năm 2009 và USNS Bowditch trong năm 2013 và 2016, đã làm Trung Quốc tin rằng các nỗ lực của Mỹ nhằm làm suy yếu quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực. Sự kiện cuối cùng xảy ra vào ngày 15/12/2016 khi thiết bị không người lái của Mỹ bị một tàu hải quân Trung Quốc thu giữ.

Nếu nước Mỹ dưới thời Trump theo đuổi một chiến lược ‘hòa bình thông qua sức mạnh “, như đã dự đoán, Bắc Kinh dường như không ngừng các hoạt động xây dựng ở Biển Đông. Nếu Trung Quốc quân sự hóa các đảo, bằng cách cài đặt vũ khí hạng nặng như tên lửa , máy bay, hoặc tàu chiến, quan hệ Trung-Mỹ có thể được đặt ở nguy cơ cao.

Bắc Kinh sẽ nhận ra rằng lý do hầu hết các nước Đông Nam Á giữ thái độ trung dung là để xoa dịu sự phẫn nộ của Trung Quốc sau khi bị Tòa án Trọng tài vứt bỏ yêu sách ở Biển Đông. Đành rằng việc không thừa nhận Tòa và tiếp tục có hành động gây hấn ở Biển Đông của Trung Quốc đồng nghĩa là những nguyên nhân cơ bản của cuộc xung đột vẫn chưa được giải quyết. Các câu hỏi quan trọng về tương lai của các tranh chấp Biển Đông không phải là liệu hòa bình và hợp tác sẽ được duy trì, mà là khi nào và như thế nào nguyên nhân mới cho các cuộc xung đột và căng thẳng sẽ nổi lên. Đối đầu vũ trang trực tiếp giữa hai quốc gia ở Biển Đông có thể là không xảy ra, nhưng với việc thiếu lòng tin chiến lược, điều đó không phải không thể xảy ra. Như vậy, bất cứ ngộ nhận, tính toán sai lầm, hoặc hành vi sai trái ở cấp độ hoạt động, nếu không được quản lý đúng cách, có thể leo thang thành cuộc đối đầu chính trị nghiêm trọng ở một mức độ cao hơn.


Tăng cường hợp tác ở Biển Đông

Bảo vệ hòa bình và ổn định ở Biển Đông là lợi ích chung của tất cả các nước trong khu vực, đặc biệt là các quốc gia ven biển, để họ có thể chú ý nhiều hơn và đầu tư nhiều nguồn lực vào phát triển kinh tế và xã hội.

Có những cơ hội hợp tác khu vực ở Biển Đông. Các nước có liên quan hàng hải ở Biển Đông có nhiều kinh nghiệm trong hợp tác hàng hải. Một số ví dụ nổi bật bao gồm việc phân chia ranh giới Trung-Việt trong Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá song phương, thỏa thuận Malaysia-Philippines vào khu vực bảo vệ rùa biển, và các thỏa thuận Philippines-Đài Loan hợp tác thực thi pháp luật hàng hải. Nhìn vào mức độ toàn cầu, rất nhiều quốc gia đã tham gia vào hợp tác hàng hải trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả liên doanh phát triển, hợp tác thăm dò dầu khí, ngư nghiệp. Những việc đó có thể là những bài học thực tế để thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông.

Ngoài ra, các nước trong khu vực đã đạt được một số thỏa thuận chính trị và các khuôn khổ trao đổi quan điểm và giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Tuyên bố năm 2002 về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) chắc chắn là tài liệu nổi bật nhất được ký kết giữa Trung Quốc và ASEAN trong vấn đề này. DOC đưa ra những nguyên tắc cơ bản điều chỉnh ứng xử của các nước đã ký ở Biển Đông. Ngoài DOC, Trung Quốc và các nước ASEAN tham gia vào một số thỏa thuận khác và các cơ chế trong đó các tranh chấp Biển Đông đã được thảo luận, trong đó có ASEAN Plus, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Plus và Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Các quyết định trọng tài trong trường hợp giữa Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông cũng có thể được xem như là một tài liệu tham khảo quan trọng cho tương lai hợp tác ở Biển Đông, mặc dù chính phủ Trung Quốc vẫn chưa chính thức công nhận nó.

Tuy nhiên, với những thách thức và những bất ổn trong tương lai của an ninh ở Biển Đông, điều quan trọng là các nước trong khu vực phải có ý chí chính trị mạnh mẽ để thúc đẩy hợp tác và quản lý các khác biệt và tranh chấp trong khu vực. Bốn nguyên tắc cần được tôn trọng để tạo điều kiện hợp tác ở Biển Đông. Nguyên tắc đầu tiên là nguyên tắc của luật pháp, mà từ lâu đã là nguyên tắc quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế hiện đại, đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia. Nguyên tắc thứ hai là tự kiềm chế, đã được tốt giải quyết trong DOC.

Thứ ba là tiếp cận dần dần. Khi các tranh chấp hàng hải ở Biển Đông là không thể được giải quyết trong tương lai gần, việc áp dụng một cách tiếp cận phân loại là chiến lược thực dụng nhất. Ở đây các nước cần cố gắng đạt được thỏa thuận sơ bộ về các vấn đề ít nhạy cảm hơn, mà hỗ trợ trong việc xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác sâu sắc hơn về những vấn đề nhạy cảm hơn. Cuối cùng, hợp tác ở Biển Đông phải được nhấn mạnh. Chắc chắn, các vấn đề liên quan đến quan hệ song phương, chẳng hạn như tranh chấp lãnh thổ đối với một số tính năng ở Biển Đông giữa hai nước cần được giải quyết trực tiếp và song phương giữa các bên liên quan. Tuy nhiên, sự phức tạp của các tranh chấp yêu cầu tất cả các bên liên quan là một phần của quá trình để duy trì bất kỳ thỏa thuận hợp tác đạt được.

Các dự án hợp tác ở Biển Đông có thể được tiến hành cả ở cấp chính trị hoặc hành động. Ở cấp độ chính trị, những nỗ lực của Trung Quốc và ASEAN để đạt được một khuôn khổ cho COC vào năm 2017 xuất hiện đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát không có niềm tin mạnh vào COC do thiếu tin tưởng lẫn nhau và sự khác nhau đáng kể về lợi ích quốc gia của các bên ở Biển Đông. Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á cũng có thể tìm thấy cơ hội để thúc đẩy hợp tác đa phương hoặc song phương. Ở cấp độ hoạt động, hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật hàng hải có tầm quan trọng đặc biệt vì đa số các sự cố gần đây ở Biển Đông có sự tham gia của các cơ quan này. Các nước trong khu vực có thể làm việc để đưa ra quy định về các hành vi của các cơ quan thực thi pháp luật hàng hải trong các vụ đụng độ trên biển giống như những gì mà chính phủ Singapore đề xuất.

Một cách toàn diện thứ ba để tăng cường hợp tác ở Biển Đông là sự kết hợp của các phương pháp chính trị và hoạt động để sửa chữa các mối quan hệ. Theo truyền thống, các chính phủ thường tập trung vào một phương pháp tiếp cận từ trên xuống, từ hướng dẫn toàn cầu để áp dụng trong khu vực và thực thi pháp địa phương. Tuy nhiên, có nhiều nỗ lực trong những năm gần đây để áp dụng các quy định toàn cầu, pháp luật, và định mức vào Biển Đông đã không mang lại kết quả tốt đẹp. Đó là thời gian để suy nghĩ về bắt đầu hợp tác theo thứ tự ngược lại: tạo ra các chuẩn mực, quy tắc và nguyên tắc ở cấp địa phương, kiến ​​nghị với chính phủ các nước trong khu vực để chấp nhận, và nếu thành công, sau đó biến chúng thành quy định quốc tế. Một kịch bản như vậy, tuy nhiên, sẽ đòi hỏi sự phát triển của cơ chế quản lý các tranh chấp ở Biển Đông.

Hai lĩnh vực hợp tác tiềm năng ở Biển Đông là quản lý thủy sản và xây dựng lòng tin ở cấp độ hoạt động giữa các cơ quan thực thi pháp luật. Nguồn cá ở Biển Đông đã nhanh chóng suy giảm khi như nước trong khu vực tiếp tục mở rộng đội tàu đánh cá nước sâu của họ, và hợp tác để bảo tồn nguồn tài nguyên cá là rất cấp thiết. Bảo tồn thủy sản là một lĩnh vực phi truyền thống, ít nhạy cảm hơn, và không bị mất để hợp tác. Trong giai đoạn đầu, các nước trong khu vực có thể thiết lập một nhóm liên nghiên cứu để tiến hành nghiên cứu nguồn thủy sản, và tổng khối lượng cá đánh bắt hàng năm, và khuyến nghị các chính sách phối hợp giữa các chính phủ. Các nước trong khu vực thì có thể nghĩ về hợp tác thiết thực hơn, chẳng hạn như thiết lập các khu bảo tồn biển ở Biển Đông để cho phép nguồn cá phục hồi. Liên quan đến các cơ quan thực thi pháp luật, việc xây dựng lòng tin ở cấp độ hoạt động, quốc gia ven biển ở Biển Đông có thể thiết lập một nền tảng cho các cơ quan này thường xuyên gặp gỡ để họ có thể hiểu rõ hơn về vai trò và chính sách của nhau. Tiếp xúc ở cấp độ hoạt động cũng rất quan trọng để quản lý khủng hoảng tai nạn, sự cố xảy ra trên biển. Về lâu dài, thông qua các cuộc họp thường xuyên, các cơ quan này trong khu vực sẽ phát triển một tập hợp các nguyên tắc và giao thức cơ bản cho sự hợp tác và phòng ngừa sự cố trên biển. Tài liệu này sau đó sẽ được gửi tới các cơ quan chính phủ tương ứng của nước họ để điều chỉnh và áp dụng.

Diễn biến gần đây ở Biển Đông cho thấy những thách thức quan trọng và tiềm ẩn rủi ro cho an ninh khu vực. Tuy nhiên, cơ hội vẫn còn cho các nước để thúc đẩy hợp tác và quản lý xung đột tiềm năng. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, nguyên tắc tự kiềm chế, và tính toàn diện và tiếp cận dần dần, các nước khu vực có thể tăng cường hợp tác trong các vấn đề như vậy ít nhạy cảm như bảo tồn cá và xây dựng lòng tin giữa các cơ quan thực thi pháp luật hàng hải của quốc gia ven biển. Một kết quả thành công sẽ dẫn đến hợp tác sâu hơn trong các vấn đề khó khăn hơn trong tương lai.

————————–

Hà Anh Tuấn là nghiên cứu sinh tại Đại học New South Wales, Viện Nghiên cứu Sydney về Biển Đông, Học viện Ngoại giao Việt Nam

Tin bài liên quan:

VNTB- Quan hệ Việt Trung nồng ấm trở lại

Phan Thanh Hung

VNTB- CPJ công bố người được giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế năm 2016

Phan Thanh Hung

VNTB- Mẹ Nấm: Phương cách Việt Nam giam giữ blogger nổi tiếng nhất

Phan Thanh Hung

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.