Quang Thành
(VNTB) – Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Lê Hoài Trung đã có một bài phỏng vấn với trang tin Thông tấn xã Việt Nam (https://vietnamnews.vn/opinion/569747/viet-nam-works-to-protect-human-rights.html) về những thành tựu của Việt Nam trong thúc đẩy nhân quyền.
Theo vị Thứ trưởng Ngoại giáo này, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là những “cam kết chắc chắn của Nhà nước Việt Nam trong nhiều thập kỷ.” Và là “trung tâm, mục tiêu, động lực cho tất cả các chính sách và hành động của đất nước.”
Thành tựu được liệt kê bao gồm Hiến pháp 2013 ghi nhận quyền con người, 100 luật và bộ luật liên quan đến quyền con người được thông qua. Sửa đổi Bộ luật Lao động tương thích với các công ước quốc tế quan trọng của Tổ chức Lao động Quốc tế.
Năm 2019, Việt Nam cũng đã hoàn thành Đánh giá định kỳ toàn cầu (UPR) – Chu kỳ III và nhận được “khá nhiều ý kiến tích cực từ nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế.”
“Việt Nam cũng đã tiến hành các vòng ngoại giao hoặc tham vấn song phương với một số đối tác đã thể hiện sự quan tâm đến quyền con người.”
Nhân quyền và lắt léo nhân quyền
Mặc dù Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam đã chia sẻ nhiều thành tựu trong việc thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, chìa khóa cho vấn đề nhân quyền vẫn nằm ở khía cạnh “chấp nhận được” bởi nhà nước Việt Nam.
Ngay trong bài phỏng vấn, ông Lê Hoài Trung cũng diễn giải về chính sách bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền qua các chương trình nghị sự tại Liên Hợp Quốc, ASEAN, ASEM nhưng lại liên quan đến các khía cạnh quyền lành tính bao gồm “biến đổi khí hậu, bình đẳng giới và các vấn đề khác.”
Các vấn đề khác của nhân quyền không được đề cập đến, bao gồm Quyền dân sự – chính trị có yếu tố cốt lõi như Quyền được biểu tình, Quyền được lập Hội.
Trong khi đó, các Quyền “của người khuyết tật, biến đổi khí hậu, bình đẳng giới” được Việt Nam tích cực thúc đẩy và hiện diện. Điều này được hiểu là lãnh đạo Việt Nam khéo léo trong cam kết về quyền con người, thúc đẩy các yếu tố lành tính để cải thiện thứ hạng của quyền con người, làm lu mờ các vấn đề nhân quyền nhạy cảm.
Đây là lý do tại sao Bộ luật Hình sự Việt Nam bị các tổ chức nhân quyền chỉ trích vì sự mơ hồ của chính nó trong hạn chế các quyền dân sự và chính trị. Đây cũng là lý do tại sao, theo hồ sơ mới nhất của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, số tù nhân chính trị đã vượt quá 130, bất chấp “các cam kết nhân quyền” mà Hà Nội “tôn trọng”, và cam kết trong các hiệp định thương mại gần đây (PTPGP, EVFTA).
Nhân quyền mang màu sắc Việt Nam
Mặc dù ông Thứ trưởng đề cập đến thiếu sót và hạn chế cần khắc phục như “nhận thức của người dân về quyền của họ là không đủ, năng lực của các quan chức để đảm bảo quyền của người dân vẫn còn yếu”, và thậm chí là “điều kiện kinh tế xã hội khách quan không cho phép chúng ta có nguồn lực để đảm bảo quyền lợi của mọi người như mong đợi”. Nhưng ông đồng thời đưa ra một hàm ý đối-ngoại và đối-nội nhân quyền cực kỳ mạch lạc về quyền con người, khi nhấn mạnh “một số tổ chức và cá nhân lạm dụng quyền con người và quyền tự do dân chủ để phục vụ ý định chính trị của chính họ”. Góc nhìn này tạo nên một hình thức nhân quyền với đặc điểm Việt Nam.
1211/5000 Nhân quyền với đặc điểm Việt Nam là giam giữ những người bất đồng chính kiến thay vì đối thoại, với những luật lệ mơ hồ dựa trên “an ninh quốc gia”. Kiểu thức nhân quyền này cũng hạn chế hành lang pháp lý tiến bộ trong tiến hành ân xá đối với các tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm. Và có những đối xử không tương xứng với các quy định trong trong thời gian họ bị tạm giam, tạm giữ, giam giữ như “sau khi bị bắt, những người bất đồng chính kiến thường bị giam giữ tới 18 tháng”; luật sư bào chữa thường bị gây khó khăn trong tiếp cận hồ sơ, biện hộ trước – trong và sau xét xử. Trong một số trường hợp, người bị giam giữ, tạm giữ đối diện với “mớm cung, bức cung” trong khi thẩm vấn và sự quấy rối các thành viên gia đình và những người ủng hộ các nhà bất đồng chính kiến ngay trong quá trình xét xử ở các phiên tòa được cho là “công khai” [https://www.amnestyusa.org/what-you-need-to-know-about-vietnams-human-rights-record/].
Kỹ sư, TNLT Nguyễn Ngọc Ánh từng gây bất ngờ khi “viết văn bản từ chối luật sư ngay sau khi được thông báo luật sư đã lập thủ tục bào chữa”, căn nguyên được điều tra viên “dụ”, theo đó, “nếu từ chối luật sư thì sẽ được cộng thêm yếu tố giảm nhẹ hình phạt vì đã cộng tác với cơ quan điều tra, mức án chỉ độ 2 đến 2,5 năm tù thôi!”.
Nhân quyền với đặc điểm Việt Nam vì dựa trên các điều luật mơ hồ, nên xuất hiện “giám định viên tư pháp về tư tưởng, nhận thức, quan điểm chính trị của một người” để kết tội một người. Blogger Nguyễn Hữu Vinh trong một bình luận trên BBC Tiếng Việt đã thẳng thắn cho đây là “tòa án thứ hai” để phán xét tội trạng một người. Nhưng phương thức “giám định tư tưởng” đến nay vẫn không được ai hình dung ra, nếu không muốn nói thẳng là hoàn toàn “mơ hồ”.
Nhân quyền với đặc điểm của Việt Nam về cơ bản coi trọng quyền lực của nhà nước đối với các quyền tự do cá nhân và đó là lý do tại sao “nhận thức về quyền của người dân” bị hạn chế. Hạn chế này không chỉ là thiếu thông tin về quyền con người trong một thời gian dài ở hệ thống tuyên truyền cấp nhà nước mà còn trong việc áp dụng Quyền theo Hiến pháp, ngay tại Điều 25 của Hiến pháp 2013. Đó là lý do tại sao, sau 37 năm tham gia Công ước về quyền dân sự và chính trị, Việt Nam mới công bố Quyết định 1252 do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký để “thực hiện Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị “, nhằm “tiếp tục thúc đẩy các quyền dân sự và chính trị thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và đào tạo”.
Trong khi đó, Luật về Biểu tình và Luật về Hội liên tục đặt lên rồi rút xuống trong nghị trường.
Cách thức Việt Nam “thúc đẩy nhân quyền” tại Liên Hiệp Quốc, ASEAN, ASEM hay báo cáo UPR III như Thứ trưởng Lê Hoài Trung tự hào trong “thành tựu nhân quyền” thực ra bị các tổ chức nhân quyền coi là một cách tận dụng các diễn đàn để làm suy yếu các tiêu chuẩn về nhân quyền. Tức nâng cao khía cạnh nhân quyền lành tính để biện hộ cho các hành vi quốc gia trong ngăn chặn, đe dọa và dập tắt các đòi hỏi nhân quyền mà Việt Nam coi là “nhạy cảm”. Và đây là cơ sở giúp Bộ Ngoại giao Việt Nam phủ nhận việc giam giữ bất kỳ “tù nhân lương tâm” nào và phản bác báo cáo các tổ chức nhân quyền là “không có căn cứ.”
Đó là lý do tại sao nhân quyền ở Việt Nam được đặc trưng hoàn toàn bởi nhà nước – đảng, chứ không phải bởi các giá trị phổ quát của quyền con người.