VNTB – Trung Quốc đang bẻ cong các quy tắc ở Biển Đông ra sao

VNTB – Trung Quốc đang bẻ cong các quy tắc ở Biển Đông ra sao

Anh Khoa dịch 

 

(VNTB) – Việc Bắc Kinh áp dụng sai luật quốc tế trong tranh chấp lãnh hải phức tạp hơn vẻ bề ngoài.

 

Oriana Skylar Mastro

Các cuộc tập trận của Trung Quốc ở Biển Đông vào tháng trước, và phản ứng mạnh mẽ của Mỹ, cho thấy những vùng biển tranh chấp này sẽ không sớm lắng dịu. Trong khi chủ yếu tập trung vào các cuộc diễn tập quân sự, sự cạnh tranh trong các vị trí pháp lý cũng đang nóng lên. Năm ngoái, cả Hoa Kỳ và Úc đều khiến Trung Quốc phẫn nộ khi chính thức tuyên bố rằng các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông là trái pháp luật. Những quốc gia có yêu sách khác hài lòng với sự thay đổi chính sách này, nhưng không ai lên tiếng rõ ràng.

Tuy nhiên, vấn đề không phải là Trung Quốc vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế – mà là Trung Quốc làm như vậy trong khi đồng thời tạo ra một vỏ bọc giá trị hợp pháp cho lập trường của mình.

Sự khôn ngoan thông thường là Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với “hầu như tất cả các đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận của chúng”. Các tuyên bố của họ là “sâu rộng” và mở rộng hơn so với bất kỳ tuyên bố của đối thủ nào khác. Năm 2009, Đới Bỉnh , khi đó là quan chức hàng đầu của Trung Quốc, lần đầu tiên gọi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, một thuật ngữ thường được sử dụng cho Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng. Trong khi Trung Quốc không nói cụ thể về mức độ yêu sách của mình, họ sử dụng “đường chín đoạn”, “cắt ngang qua Việt Nam và Philippines, và hướng tới Indonesia, gồm hầu như toàn bộ Biển Đông”, để phân định các yêu sách của mình .

Bề ngoài, có vẻ như các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang dựa vào một lập luận lịch sử để củng cố các tuyên bố của họ – Trung Quốc theo dõi sự tương tác của họ với Biển Đông từ thời Tây Hán. Do đó, câu chuyện của Bắc Kinh về các tuyên bố chủ quyền của họ bắt đầu từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, khi người Trung Quốc đi lại trên Biển Đông và khám phá ra một số đặc điểm đất liền của khu vực.

Các học giả đã liệt kê tỉ mỉ bản chất đáng ngờ của lịch sử này. Bên cạnh đó, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) không cho các bên ký kết quyền đưa ra yêu sách dựa trên di sản lịch sử, và khái niệm “yêu sách lịch sử” thiếu cơ sở rõ ràng trong luật pháp quốc tế.

Nhưng thực ra đây không phải là cách Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với 90% Biển Đông. Việc Trung Quốc lạm dụng và áp dụng sai luật pháp quốc tế phức tạp hơn một chút. Có bốn cấp độ được xây dựng dựa trên nhau.

Thứ nhất, Trung Quốc tuyên bố họ có các quyền tương tự như các quốc gia quần đảo, những quốc gia này chủ yếu được tạo thành từ các đảo. Một trong những lợi ích của quy chế quần đảo là vùng nước giữa các đảo được coi là nội thủy, giống như các con sông bên trong một quốc gia. Các quốc gia khác không có quyền quá cảnh các vùng biển này nếu không được phép. Quy chế quần đảo này được LHQ và thông qua và chỉ có 22 quốc gia có được quy chế này.

Cảnh báo: Trung Quốc không phải là một trong số đó.

Trung Quốc là một quốc gia lục địa rõ ràng, nhưng tuy nhiên, họ đã vẽ đường cơ sở thẳng quanh quần đảo Hoàng Sa và tuyên bố vùng biển giữa các đảo là nội thủy. Bắc Kinh đã không thực hiện điều này một cách rõ ràng đối với khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng phản ứng của họ trước các hoạt động của các nước khác cho thấy đó là cách hiểu của họ. Các cuộc thảo luận của tôi với các chiến lược gia Trung Quốc cho thấy rằng Trung Quốc có thể sẽ vạch ra rõ ràng các đường cơ sở để tuyên bố chủ quyền vùng nội thủy giữa quần đảo Trường Sa một khi họ có đủ khả năng quân sự để thực thi. (Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, vì vùng biển của Trường Sa gấp 12 lần Hoàng Sa, gồm 160.000 đến 180.000 km vuông nước.)

Sau đó, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý (hải lý) tính từ đường cơ sở Hoàng Sa, không phải từ các đảo riêng lẻ và ở Trường Sa từ nhiều địa điểm mà theo luật pháp quốc tế không được trao quyền này, chẳng hạn như các đảo nhân tạo. Hơn nữa, cách giải thích của Trung Quốc về lãnh hải là nhà nước có độc quyền đưa ra, áp dụng và thực thi luật của mình trong không gian đó mà không có sự can thiệp của nước ngoài. Nhưng theo UNCLOS, tất cả các tàu, dân sự hay quân sự, được hưởng quyền đi lại vô hại qua lãnh hải của các quốc gia khác. Hơn nữa, vùng tiếp giáp được coi là một phần của vùng biển quốc tế, và các quốc gia không có quyền hạn chế hàng hải hoặc thực hiện bất kỳ quyền kiểm soát nào vì mục đích an ninh.

Cuối cùng, Trung Quốc tuyên bố 200 hải lý tính từ cuối lãnh hải là vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), nơi họ tuyên bố có quyền điều chỉnh hoạt động quân sự. Mỹ khẳng định rằng tự do hàng hải của các tàu quân sự là một thực tiễn được thiết lập và chấp nhận trên toàn cầu, được quy định trong luật pháp quốc tế – nói cách khác, các quốc gia không có quyền hạn chế hàng hải hoặc thực hiện bất kỳ sự kiểm soát nào vì mục đích an ninh trong các đặc khu kinh tế. Australia chia sẻ quan điểm này, nhưng không phải tất cả các nước đều chấp nhận cách hiểu này. Argentina, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Malaysia, Maldives, Oman và Việt Nam đồng ý với Trung Quốc rằng tàu chiến không có quyền tự động đi lại vô tội trong lãnh hải của họ. 20 quốc gia đang phát triển khác (như Brazil, Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam) nhấn mạnh rằng các hoạt động quân sự như giám sát chặt chẽ và do thám của một quốc gia trong EEZ của một quốc gia khác là xâm phạm lợi ích an ninh của các quốc gia ven biển và do đó không được bảo vệ theo quyền tự do hàng hải.

Nói cách khác, trong khi luật pháp quốc tế có thể ủng hộ quan điểm của Hoa Kỳ và Úc về hành vi pháp lý trong các đặc khu kinh tế, các quốc gia cần nỗ lực hơn nữa để củng cố quy phạm này một cách rộng rãi hơn.

Chỉ tính riêng ba vị trí trên nội thủy, lãnh hải và đặc khu kinh tế, Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền với khoảng 80% Biển Đông. Sau đó, Trung Quốc sử dụng đường chín đoạn để bao phủ phần lãnh thổ còn lại và đưa ra bằng tuyên bố “vùng nước lịch sử” – tức là Trung Quốc đã kiểm soát môi trường biển này trong lịch sử – một lần nữa, một quan điểm không có cơ sở trong luật pháp quốc tế.

Mỹ đã thực hiện các bước để thách thức cơ sở pháp lý sai lầm trong các tuyên bố của Trung Quốc. Đây là mục đích chính đằng sau các hoạt động tự do hàng hải hay còn gọi là FONOPS – để chứng minh thông qua hành động rằng Mỹ không chấp nhận quan điểm của Trung Quốc rằng các khu vực đó không phải là vùng biển quốc tế mà là vùng nội thủy hoặc lãnh hải. Trong những trường hợp khác, Mỹ đang ra hiệu rằng họ không chấp nhận một khu vực nằm trong EEZ của Trung Quốc, mặc dù dù sao thì Trung Quốc cũng không có quyền điều chỉnh hoạt động quân sự ở đó.

Nhưng làm suy yếu các tuyên bố pháp lý sai lầm của Trung Quốc sẽ mất nhiều hơn các hoạt động quân sự và những tuyên bố gay gắt. Vào năm 2016, Tòa án La Hay đã phán quyết rằng yêu sách của Trung Quốc về các quyền lịch sử ở Biển Đông là thiếu cơ sở pháp lý, các hành động của Trung Quốc trong khu vực xâm phạm quyền của Philippines và các đặc điểm ở Trường Sa không được hưởng các đặc quyền kinh tế hoặc vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, việc Washington liên tục từ chối phê chuẩn UNCLOS đã làm suy yếu hiệu quả chung của việc đẩy lùi Bắc Kinh bằng các công cụ pháp lý theo quy chế. Ngoài ra, Washington đã lãng phí cơ hội hỗ trợ Philippines thực thi phán quyết năm 2016 của Tòa án pháp lý quốc tế theo hướng có lợi cho mình, càng làm giảm sức hấp dẫn đối với các bên tranh chấp khác thách thức Bắc Kinh trên cơ sở pháp lý.

Mỹ không nên phạm phải cùng một sai lầm lần nữa. Mỹ sẽ hỗ trợ các bên tranh chấp khác có thể muốn theo đuổi hành động pháp lý chống lại Trung Quốc (Việt Nam hiện đang xem xét tiến trình hành động này). Sau đó, khi tòa án đưa ra phán quyết chống lại Trung Quốc một lần nữa, Mỹ nên dẫn đầu trách nhiệm thực thi phán quyết.

Trung Quốc đang sử dụng tất cả các công cụ theo ý mình để giành quyền kiểm soát tuyến đường thủy chiến lược quan trọng này. Mỹ và các đồng minh cũng nên làm như vậy.

 

*Oriana Skylar Mastro là Thành viên Trung tâm tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford và Thành viên Chính sách Quốc phòng và Đối ngoại tại Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ. Cuốn sách của cô, Chi phí của cuộc trò chuyện: Những trở ngại đối với cuộc đàm phán hòa bình trong thời chiến (Cornell University Press 2019), đã giành giải Sách hay nhất về An ninh quốc tế của Hiệp hội Khoa học Chính trị Hoa Kỳ (giảng viên trước nhiệm kỳ).

Nguồn: The Interpreter


 

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (0)