Hiếu Bá Linh lược dịch
Mới đây, một bài báo với tựa đề “Tại sao nói cuộc phản công tự vệ năm 1979 chống lại Việt Nam là cuộc chiến tụt hậu (đi sau thời đại)?” được đăng tải ngày 6 tháng 1 năm 2022 cho biết trong cuộc chiến “dạy cho Việt Nam một bài học” hồi năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã phải huy động một lực lượng lên tới 3 triệu người. Và bài báo này cũng gián tiếp thú nhận Trung Quốc đã bị tổn thất nặng nề, nhất là về con số tử vong và thương vong, vì quân đội Trung Quốc lạc hậu trên nhiều phương diện. Sau đây là lược dịch bài báo:
Cuộc phản công tự vệ chống Việt Nam năm 1979 đã bộc lộ nhiều vấn đề của quân đội ta, từ việc thiếu trang bị cá nhân và phân bố lực lượng không hợp lý, đến chất lượng đạn không đạt và khả năng chỉ huy chiến đấu của chỉ huy cấp cơ sở. Quân đội ta đã bộc lộ những vấn đề gì trong cuộc phản công tự vệ chống Việt Nam năm 1979? ” được đề cập trong bài báo này.
Bây giờ, hãy phân tích về lý do tại sao nói rằng vào năm 1979, chúng ta đã chiến đấu một cuộc chiến lạc hậu với 3 triệu người.
Tại sao lại có 3 triệu người?
Quân đội tham gia phản công tự vệ ở Vân Nam và Quảng Tây gồm có 27 sư đoàn từ 10 binh đoàn dã chiến, cộng với 2 sư đoàn độc lập, 6 trung đoàn phòng thủ biên giới và 4 tiểu đoàn phòng thủ biên giới độc lập từ các quân khu Quảng Tây và Vân Nam. Ngoài ra còn có 2 sư đoàn pháo binh, 1 trung đoàn pháo binh, 3 sư đoàn pháo phòng không, một tiểu đoàn pháo phòng không độc lập khác, 2 sư đoàn đường sắt, 4 trung đoàn công binh, 2 trung đoàn thông tin liên lạc, 3 trung đoàn cầu thuyền, 2 trung đoàn phòng thủ hóa học, 3 quân đoàn công binh, 8 trạm quân sự, 22 bệnh viện dã chiến, 11 bệnh xá và ít nhất 15 trung đoàn ô tô thuộc quyền quản lý của Sư đoàn Hậu cần Quân khu 20 Quảng Châu và đơn vị cấp Sư đoàn Hậu cần Quân khu 23 Côn Minh.
Cùng với Lục quân, Không quân tham gia các nhiệm vụ tuần tra biên giới với Không đoàn 7 là chủ lực; Hải quân thành lập Đội 217 của Hạm đội Biển Hoa Nam (Biển Đông), trực thuộc các Sư đoàn 8 và 12 của Lực lượng Không quân Hải quân, để thực hiện các nhiệm vụ tuần tra ở Vịnh Bắc Bộ và vùng biển Tây Sa (Hoàng Sa).
Tổng cộng có 558.952 lính Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc – PLA (không bao gồm hải quân) đã tham gia vào cuộc chiến năm 1979 chống Việt Nam. Trong đó, có hơn 320.000 quân ở Mặt trận phía Đông và hơn 230.000 quân ở Mặt trận phía Tây. Cùng với 435.000 dân quân và cửu vạn được huy động ở Quảng Tây (215.000 người) và Vân Nam (220.000 người), tổng số binh lính và thường dân tham gia cuộc chiến là gần một triệu người ( 994.000 người ).
Ở phía Nam, cả triệu binh lính và dân thường đã tiến công toàn diện vào miền Bắc Việt Nam, nhưng ít nhất là 8 tiếng đồng hồ trước ngày 17 tháng 2 năm 1979, ở phần phía Đông và phía Tây của biên giới Xô – Trung, tất cả các binh đoàn dã chiến của quân đội ta được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Quân khu Thẩm Dương, Đại quân khu Bắc Kinh, Quân khu Lan Châu và Quân khu Tân Cương, nơi giáp ranh với Liên Xô cũ và Mông Cổ, đã vào trận theo đúng mệnh lệnh. Hơn 2 triệu binh sĩ được huy động trong khu vực này, chủ yếu để ngăn chặn một cuộc tấn công bất ngờ của Liên Xô vào Trung Quốc.
Chừng nào lực lượng phía Bắc còn chiến đấu, lực lượng phía Nam sẽ ứng chiến càng lâu càng tốt. Năm 1979, tổng quân số cả nước Trung Quốc là 6,1 triệu người, hồi tháng 2 và 3 năm 1979, gần một nửa quân số này đã tham chiến hoặc trong tình trạng ứng chiến.
Tuy nhiên, cuộc chiến tranh hồi năm 1979 mà có tới 3 triệu người tham gia và ứng chiến thực sự là một cuộc chiến tranh đi sau thời đại (tụt hậu).
Sự tụt hậu này chủ yếu thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Tổ chức lạc hậu
Sau giữa những năm 1970, quân đội ta được tổ chức lại theo quy chế thành lập sư đoàn, chia thành sư đoàn A và B. Các sư đoàn loại A là đội quân được biên chế đầy đủ (quân số và thiết bị đầy đủ), trong khi sư đoàn loại B chỉ có nửa quân số với cơ sở vật chất bị cắt giảm.
Năm 1979, việc tăng quân số sau giai đoạn chuyển từ thời bình sang thời chiến là điều hiển nhiên, nhưng thiếu sức mạnh chiến đấu.
Lấy sư đoàn loại B phía Nam làm ví dụ, quân số khoảng 5.000 đến 6.000, gồm 3 trung đoàn bộ binh, trung đoàn pháo binh, tiểu đoàn pháo phòng không, tiểu đoàn thông tin liên lạc và tiểu đoàn công binh; …
Sau khi triển khai chiến lược phản công tự vệ chống Việt Nam được ban hành, các bộ đội tham gia đã ngay lập tức tiến hành các bước chuẩn bị khác nhau, trong đó quan trọng nhất là nâng cấp các sư đoàn loại B lên sư đoàn loại A và hoàn thiện đội hình, nhân sự và thiết bị. Về tổng thể, mở rộng trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 2 thành 5 đại đội trực thuộc; mở rộng tiểu đoàn bộ binh thành 3 đại đội bộ binh, đại đội súng máy và đại đội pháo binh; … trung đoàn pháo binh được mở rộng thành 4 tiểu đoàn pháo binh, các đơn vị trực thuộc sư đoàn cũng được tổ chức lại phù hợp với yêu cầu mở rộng. Đồng thời, bổ sung, điều chỉnh đội ngũ cán bộ có liên quan, trang bị và làm phong phú thêm các loại quân nhu kỹ thuật, bổ sung, điều chỉnh vũ khí, trang bị, khí tài, phương tiện.
Sau khi nâng cấp theo cách này, các sư đoàn quân tham chiến từ 5.000 đến 6.000 sẽ tăng lên thành 11.000 – 12.000 binh sĩ, đều đạt tiêu chuẩn binh chủng loại A đủ biên chế, đáp ứng cơ bản nhu cầu chiến đấu.
Năm 1979, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (PLA) huy động tổng cộng 29 sư đoàn lục quân, trong đó 21 sư đoàn ban đầu là sư đoàn loại B và cần được nâng cấp tạm thời. Lấy Sư đoàn 149 thuộc Binh đoàn 50 của Quân khu Thành Đô làm ví dụ, toàn bộ sư đoàn được mở rộng thành 1 sở chỉ huy tiểu đoàn và 36 đại đội, điều chỉnh nâng cấp 836 cán bộ, thăng cấp 1.350 đại đội phó, bổ sung 2.539 cựu chiến binh và 3.108 tân binh (tổng cộng bổ sung 5.647 người), đồng thời bổ sung, điều chỉnh số lượng lớn vũ khí trang bị, vật tư.
Bây giờ mọi người đều có thể nhìn ra vấn đề trong nháy mắt. Hơn 70% trong số 29 sư đoàn tham chiến là sư đoàn loại B. Nếu tất cả chúng được nâng cấp cho phù hợp với Binh đoàn 50 và sư đoàn 149, có nghĩa là 21 sư đoàn loại B sẽ phải bổ sung 50.000 cựu chiến binh và 60.000 tân binh, và nhiều sư đoàn có thể có tỷ lệ tân binh cao hơn.
Có quá nhiều tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng và tiểu đội trưởng trong một sư đoàn, một nửa số người trong một đại đội không biết nhau, và gần 30% là tân binh. Làm thế nào để đánh trận đây?
Lực lượng huy động chiến tranh tốt nhất thế giới hồi đó là Israel, quân số thường trực ít, quân dự bị được huấn luyện quân sự hoàn chỉnh còn đông hơn gấp nhiều lần, khi tập hợp lại thì có thể thành lập các đội quân và tham gia chiến đấu, và các binh sĩ đã quen thuộc với nhau.
Như Zhuge Liang đã nói sau khi xem xét thực tế, chúng ta có thời gian chuẩn bị gần hai tháng (Quân ủy Trung ương đã phát lệnh phản công tự vệ chống Việt Nam vào ngày 8 tháng 12 năm 1978), nếu dùng thời gian này để gọi lại những cựu chiến binh đã được giải ngũ trong hai năm qua, thì thương vong của chúng ta sẽ giảm ít nhất hai phần ba. Bởi vì tỷ lệ thương vong đáng kể là những tân binh.
Vì vậy, vào chiều ngày 16 tháng 3, khi cuộc phản công tự vệ chống lại Việt Nam kết thúc, Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Phó Chủ tịch Quân ủy kiêm Tổng tham mưu trưởng, đã chỉ ra vấn đề này trong bài phát biểu của mình:
“Một sư đoàn phải bổ sung vài nghìn người, nhưng một đội hình ban đầu chỉ gồm hai binh sĩ, nay cần bổ sung bảy hoặc tám người, và họ sẽ đi ra tiền tuyến mà không được huấn luyện gì cả. Họ nên được huấn luyện trong một tháng thì tốt hơn. Hệ thống này chưa tốt và vẫn còn nhiều vấn đề cần tổng kết“.
Sư đoàn loại B được gọi là sư đoàn rút gọn. Rút gọn trong thời bình, và mở rộng trong thời chiến, nhưng không có hệ thống dự bị hoàn hảo tương ứng, chỉ có thể bổ sung tạm thời một số lượng lớn quân nhân mới nhập ngũ, thiếu huấn luyện, chưa biết trận mạc là gì và phải trả giá bằng xương máu trong thực chiến.
Sau này, quân đội ta đẩy mạnh tốc độ xây dựng hiện đại hóa và khởi công xây dựng quân dự bị động viên.
Tiểu đoàn cáng dân quân
- Hậu cần còn lạc hậu
Hậu cần còn lạc hậu, và phương thức tiếp tế của chiến dịch Hoài Hải vẫn được sử dụng.
Như đã nói ở trên, Quảng Tây và Vân Nam đã huy động tổng cộng 435.000 dân quân và cửu vạn, tổ chức tổng cộng 101 tiểu đoàn cáng dân quân (dùng cáng để vận chuyển) và 45 đội vận tải, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giao nhận và di tản.
Ví dụ phần giới thiệu này:
Tổng cộng 4.028 dân quân và cửu vạn được giao cho Sư đoàn 122. Họ đến từ 4 quận Debao, Tianyang, Jingxi và Napo ở Baise. Người lớn nhất 60 tuổi và người trẻ nhất 18 tuổi. Trong thực hiện nhiệm vụ, các đồng chí nêu cao tinh thần dũng cảm, ngoan cường, không sợ hy sinh, không sợ mệt, chiến đấu liên tục, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần tích cực bảo đảm thắng lợi toàn diện cho trận đánh, và phản ánh sức mạnh vô song của chiến tranh nhân dân. Theo thống kê, trong 28 ngày đêm, họ đã vận chuyển 16.930 hộp đạn, 40 tấn vật tư, 1.300 thương binh và 355 liệt sĩ. Trung bình mỗi ngày hành trình khứ hồi của mỗi người khoảng 30 cây số, trong quá trình làm nhiệm vụ đã có 51 đồng chí dân quân bị thương, 9 đồng chí hy sinh!
(Hết trích)
Quân đội chính quy Việt Nam nằm rải rác, ẩn náu trong rừng núi phía Bắc, thường xuyên tấn công vào tuyến tiếp tế hậu cần của ta, cửu vạn bị thiệt hại rất nhiều.
Ở chiến trường Việt Nam nên sử dụng các phương thức tiếp tế hậu cần hiện đại để bảo đảm cho bộ đội tiền tuyến chiến đấu liên tục.
- Tư duy trang bị còn lạc hậu
Nhìn vào những bức ảnh về cuộc phản công tự vệ chống Việt Nam năm 1979, có thể thấy phần lớn thời gian đầu, các chiến sĩ Quân giải phóng nhân dân đều đội những chiếc mũ vải của quân phục kiểu 65 trên đầu. Tất nhiên, bộ đội Việt Nam cũng không khá hơn là bao. Những chiếc mũ lưỡi trai đội trên đầu có tác dụng che nắng tốt, không có tác dụng chống đạn và mảnh bom nhưng tốt hơn mũ vải.
Chúng ta không có mũ bảo hiểm bằng thép trong kho của chúng ta sao?
Có! Có 700.000 mũ thép Type 90 Nhật Bản, cũng như mũ thép của Mỹ bị quân đội quốc gia thu giữ, quá đủ để cung cấp cho các sĩ quan và binh lính tham gia chiến tranh. Tuy nhiên, vào những năm 1970, quân đội chúng ta nhấn mạnh vào chính trị, nhấn mạnh rằng chiến sĩ Quân Giải phóng không sợ chết, không sợ gian khổ, đội mũ sắt là biểu hiện của sự sợ hãi cái chết.
Kết quả, thống kê sau chiến tranh cho thấy 31% quân ta chết do chấn thương sọ não! Mũ thép không chống đạn nhưng có tác dụng tốt đối với mảnh bom, và tỷ lệ pháo trong chiến tranh hiện đại từ lâu đã vượt hơn đạn. Đội mũ thép có thể giảm thiểu rất nhiều thương vong mà lẽ ra có thể tránh được. Do đó, trong bài phát biểu ngày 16 tháng 3, Đặng Tiểu Bình nói:
“Chúng ta đã kết thúc trận chiến này, chúng ta phải làm gì? Việc đầu tiên gọi là tổng kết kinh nghiệm. Về vấn đề này có nhiều điều đáng tổng kết, chẳng hạn về quân đội, có một loạt vấn đề cần quan tâm, bao gồm hệ thống quân đội, đường lối xây dựng quân đội và cách huấn luyện quân đội”.
Chỉ 4 ngày sau, ngày 20/3, Quân ủy Trung ương ra “Thông báo tổng kết kinh nghiệm phản công tự vệ trên biên giới Trung – Việt”.
Từ ngày 21 tháng 3 đến cuối tháng 5, Viện trưởng Song Shilun của Học viện Khoa học Quân sự dẫn đầu đoàn nghiên cứu gồm 310 thành viên của Ban Giáo dục và Đào tạo Quân ủy điều tra bộ đội tham gia ở Quảng Tây và Vân Nam để tham gia tổng kết kinh nghiệm chiến đấu.
Bây giờ nhìn lại, thật may là 2 triệu quân chuẩn bị chiến tranh ở 3 khu vực phía Bắc giáp biên giới Trung – Xô đã không đánh nhau với Liên Xô, hãy nhớ đoạn trên: Quân khu Thẩm Dương, Quân khu Bắc Kinh, Quân khu Lan Châu và Quân khu Tân Cương giáp ranh Liên Xô cũ và Mông Cổ được lệnh vào trận, các sư đoàn bộ binh loại B của 4 quân khu chủ lực được bổ sung nhân lực, trang bị và nâng cấp thành sư đoàn loại A thời chiến.
Sư đoàn B có bao nhiêu tân binh trong hai triệu đơn vị sẵn sàng chiến đấu cấp một? Họ đội mũ lưỡi trai giáp mặt với đoàn thiết giáp lớn nhất thế giới với hỏa lực gấp hơn chục lần quân đội Việt Nam, dù dũng cảm đến mấy thì tôi cũng sợ rằng họ sẽ phải trả một cái giá không nhỏ để đánh đuổi quân đội Liên Xô!
May mắn thay, chúng tôi đã đánh trận này vào năm 1979, tìm ra vấn đề với “giá phải trả” tương đối nhỏ và đúc kết kinh nghiệm cũng như bài học. Kể từ đó, chúng ta đội mũ sắt trên chiến trường, khẩu súng bán tự động được thay thế bằng súng trường tự động, sử dụng trực thăng để vận chuyển thương binh và thành lập một lực lượng quân dự bị.
Nguồn: https://www.zhdate.com/news_military/566002.html