VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (phần 2)

VNTB – Tướng Lê Văn Hưng và những sự thực ở chiến trường An Lộc trong mùa hè 1972 (phần  2)

Văn Nguyên Dưỡng

 

[ads_custom_box title=”Lời toà soạn” color_border=”#050ce8″]

Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Dưỡng hiện sống tại Hawaii, nguyên trưởng phòng 2 ( Phòng Tình Báo) bộ tư lệnh sư đoàn 5 BB. Người tham dự trận chiến An Lộc từ bắt đầu đến kết thúc. Trong bài viết của ông dưới dây có thể có một vài chi tiết khá nhạy cảm với một vài người.

[/ads_custom_box]

 

2. Tướng Lê Văn Hưng và Tôi

 

Tổng số Sinh viên S quan Khóa V, Vì Dân, trên 1,300 người, kể c hai Đi đội bộ binh gửi th huấn ở Liên trường Võ b Liên Quân Đà Lt. Đi đa số SVSQ được gi nhâp ng và đưa đến Trường SQTB Th Đức trong tháng 5, năm 1954. Ông Hưng và tôi được xếp vào Trung đội 8 ca Thiếu úy Nguyễn Hưng Chiêu, thuộc Đi đội 2 Bộ binh, cùng ở chung phòng hỗn hợp (salle mixe) với Trung đội 7 ca Trung úy Lê văn S. Ở phòng chung này, Trung đội 7 có 12 sinh viên và Trung đội 8 cng có một số sinh viên như vậy. Còn phòng chính ca mỗi Trung đội gồm 24 sinh viên nằm kế cận hai bên phòng mixe này.

Khóa này, ti Th Đức có hai Đi đội bộ binh và sáu Đi đội chuyên ngành như Pháo binh, Trng pháo, Thiết giáp, Công binh, Truyền tin, Hành Chánh, Quân Nhu v.v. Đi đội I Bộ binh gồm các Trung đội 1, 2, 3 và 4; Đi đội II Bộ binh gồm các Trung đội 5, 6, 7 và 8. Trung đội 8 ca chúng tôi có 36 sinh viên, mà ngày nay tôi còn nhớ tên trên hơn ba mươi bn. Trung đội 8, Đi đội II Bộ binh ca Thiếu úy Nguyễn Hưng Chiêu có thể là Trung đội SVSQ to được hai k tích là đã cho ra trường một Th khoa và một s quan sau đó trở thành Tướng lãnh duy nhất cho toàn khóa, danh tiếng lẫy lừng. V tướng lãnh này là Lê văn Hưng, người Quận Hóc Môn, Tnh Gia Đnh. Ông là một trong 5 v Tướng tuẫn tiết ngày 30, tháng 4 đen, năm 1975.

SVSQ Lê văn Hưng lúc đó thnh thong đôi mắt thoáng nháy nh một lần như khi đã làm tướng. Thường ngày, lúc ngh ngơi trong phòng, Hưng thường mặc chiếc sa-rong ca người Miên, màu đ sc xanh đen, ở trần không mặc áo, cổ đeo một dây chuyền vàng mang một nanh heo rừng nh. Hưng rất ít nói, nhưng dễ mến vì lúc nào gặp ai cng cười; n cười dễ gây thiện cm và theo tôi ngh, dễ làm xiêu lòng các người đp. Nước da ngâm, nhưng cao lớn và đp trai theo lối một người hùng hơn là một thư sinh. Lúc đó anh đã lập gia đình. Khi gần hết giai đon I, nhất là sau khi đã được mang Alpha – biểu trưng ca SVSQ – cứ mỗi hai tuần sinh viên được đi phép 24 giờ về thăm gia đình. Như vậy mỗi Trung đội 36 sinh viên, thì một nửa đi phép, một nửa khác lưu tri. Tôi thuộc toán được đi phép hay lưu tri chung với anh Hưng.

Trong đời, đôi khi ta gặp những hoàn cnh chnh lòng. Khi bước chân vào Quân trường Th Đức tôi đã mang nỗi buồn riêng, ti cho thân phận mình. Không biết nói cùng ai. Lúc đó tôi là một cậu hc trò, độc thân, gia đình nghèo. Tôi nhập trường vào tháng 5, đến tháng 7, 1954, sau Hiệp đnh Genève, đất nước chia đôi. Th trấn Cà mau nh bé thân thương ca tôi biến thành nơi tập trung ca các lực lượng v trang bộ đội và du kích Việt Minh trong nhiều tháng, trước khi h tập kết ra miền Bắc. Cha và anh tôi là tiểu công chức phi rời Cà mau lên tnh l Bc liêu làm việc; gia đình ăn ở tm bợ, nghèo khó. Với số lương tháng ít oi ca một SVSQ tôi phi gởi bớt về giúp thêm cho cha m, đứa em gái còn đi hc, và người ch qu ph và hai đứa cháu cô nhi. Ngày thường, nhất là khi tập ở ngoài bãi, tôi lấy thêm phần ăn sáng mà các bn cùng bàn không đến ăn, thường là bánh mì với mấy thi chocolate hoặc fromage đầu bòở Nhà Ăn Sinh viên – mang theo để ăn trong buổi gii lao, trong khi các bn sinh viên khác bao quanh các gánh bán thức ăn hàng rong ở các bãi tập đó. Buổi chiều, khi ăn cơm xong, tôi thường mang về một ga-men (gamelle) cơm trắng để đến tối trong khi các bn đi ăn uống ở các Câu lc bộ Sinh viên hay ở những gánh hàng rong đ loi thức ăn mà vợ con binh s ở tri gia binh mang đến tận hành lang ngoài phòng ng ca sinh viên, tôi lặng l đem phần cơm đó và một chai xi dầu, ra ngồi ở bậc xi-măng đầu chiếc cống xây trên lch nước gần dãy tri ca Đi đội chy ra bãi tập thể dc quân sự, ăn dưới ánh trăng, hay trong bóng tối bao quanh. Tôi đã nuốt những ht cơm nguội lnh đó trong nhiều đêm cùng với nỗi ti thân ca mình. Rồi một đêm nào đó, tôi không nhớ rõ, Thiếu úy Nguyễn Hưng Chiêu, Trung đội trưởng ca tôi, trong buổi trực đêm ca ông, bắt gặp tôi đang ngồi ăn cơm đêm trong bóng tối như vậy. Khi ông ri đèn pile thấy rõ ga-men cơm đang ăn dang dở và chai xì-dầu, trong khi tôi đứng thẳng ở tư thế nghiêm ca một sinh viên trước thượng cấp ca mình. Ông không nói gì, để tôi đứng đó và đi vào dãy phòng ng ca Đi đội. Tôi âm thầm trở về phòng với nỗi lo sợ lớn lao trong lòng. Tôi sợ mình đã vi phm một lỗi lầm quân k nào đó ca Trường. Mấy ngày sau tôi chờ đợi nhận phần pht. Nhưng không, ngược li, tôi nhận được tờ giấy bc 100 Đồng, một số tiền khá nhiều lúc đó, xếp giữa hai trang giấy trong tập bài hc ca tôi sau khi Thầy khám duyệt và hoàn tr các tập vở đó li cho các sinh viên Trung đội. Thầy đã kín đáo cho tôi tiền như đã hiểu rõ hoàn cnh ca tôi. Đã gần sáu mươi năm rồi, tôi mang ơn Thầy Chiêu đã đào to tôi trở thành một s quan QLVNCH và về đức độ và lòng nhân hậu ca Thầy. Tôi không mong tr được ơn Thầy trong cuộc đời này vì tôi biết không có gì quí giá xứng với tấm lòng bao dung rộng lớn ca Thầy. Ngược li, rõ ràng người đã đền đáp ơn Thầy nhiều nhất là Tướng Lê văn Hưng vì những chiến công rực rỡ và sự tuẫn tiết cao đp ca v Tướng này, người anh hùng mà Thầy một thời đã to dựng nên.

Lúc đó tôi rất ít xuất tri ngh phép. Ha hoằn có đi phép thì cng ch xuất tri vào sáng ngày Chúa nhật, đi do vòng vòng các khu phố lớn Sài Gòn, xem chớp bóng ở các rp chiếu bóng thường trực để đợi đến chiều ra Đường Hai Bà Trưng, sau Tr sở Quốc hội, đợi đoàn xe GMC đưa đón SVSQ ca Trường rước về. Những tuần không đi phép tôi mặc quân phc chnh tề, cùng các bn trong Trung đội người miền Bắc, cng “mồ côi” như tôi sau khi Hiệp đnh Genève-1954 chia đôi đất nước, đi do ở khu chung quanh sân cờ lớn ca Trường, nơi có những hàng cây ta bóng mát, dù ít oi, xuống thm c dưới gốc, mà các SVSQ lưu tri thường đón tiếp và vui vầy với gia đình hay người yêu đến thăm viếng trong ngày Chúa nhật.

Cnh đầm ấm, hnh phúc và sinh động rực rỡ màu sắc này cng diễn ra trong Câu lc bộ Sinh viên và trong các lều mát hay quán ăn chung quanh đó. D nhiên trong số những thân nhân đến thăm viếng sinh viên hàng tuần không thiếu những bóng hồng tươi đp, xinh xắn, là ch, là em, là bn, là người yêu, hay vợ ca sinh viên lưu tri. Một trong những người đp đó là vợ ca anh Hưng. Nhìn từ xa xa cng biết ch đp. Dáng người cao thon th nhưng cân đối kho mnh như một thiếu nữ phương Tây. Mặt sáng, nước da trắng. Cách ăn mặc và dáng điệu to v thuộc gia đình trung lưu, khá gi. Mỗi lần thăm anh, ch thường dẫn theo đứa con gái nh chừng hơn một tuổi. H quây quần bên nhau rất hnh phúc. Thế nhưng, trong đời người ta không thể ngờ được những bất cập, tan vỡ, chia ly diễn ra mà hậu qu là ưu phiền và oán hận.

Chín năm sau ngày ra trường, mỗi người đi một nơi, không biết tin tức gì ca nhau, bỗng nhiên vào giữa tháng 1 năm 1964, tôi được biết tin về anh Lê văn Hưng. Sau ngày đo chánh 1 tháng 11, 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu b thm sát, Đi tá Nguyễn văn Phước Trưởng Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu (P2/BTTM) b mấy ông Tướng đo chính bắt giam giữ ở Cc An ninh Quân đội, Trung tá Hồ văn Lời, Ch huy trưởng Trường Quân báo Cây Mai, được đưa lên BTTM thay thế. Tôi cng được thuyên chuyển theo ông và giữ chức v Trưởng ban Hành chánh ca P2/BTTM.

Một hôm tôi đc được trong xấp hồ sơ “Công văn Đến” lệnh thuyên chuyển ca Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng ban hành hoàn tr Trung úy Lê văn Hưng về ngành Quân Báo và đặt thuộc quyền sử dng ca P2/BTTM. Trước cuộc đo chính Trung úy Hưng là Quận trưởng Trà Ôn ở miền Tây. Có l những năm trước nữa ông Hưng có hc qua một khóa Quân Báo hay giữ chức v nào đó cùng ngành với tôi mà tôi không biết. Sau đó ít lâu, khi hồ sơ cá nhân ca Hưng gửi về P2/BTTM mới được biết là sau khi tốt nghiệp ở Th Đức nhờ đậu cao nên anh được chn về Quân Khu I –lúc đó bao gồm c lãnh đa ca Vùng 3 và Vùng 4 Chiến thuật sau này- và thuyên chuyển về Bộ Ch Huy Trung đoàn 15 đóng ti Gia Đnh. Thiếu tá Lê Th Trung là Trung đoàn trưởng. Sau này, khi ông Hưng đã lên Tướng và làm Tư lệnh SĐ5BB, ông Trung, ch mang cấp bậc Trung tá, là Tham Mưu trưởng cho ông Hưng.

Không đầy một tuần sau khi P2/BTTM nhận được lệnh thuyên chuyển ca Trung úy Hưng, cng trong tháng giêng đó, một người đàn bà đến xin gặp Trung tá Trưởng P2/BTTM. Với tư cách là người ph trách về hành chánh và qun tr nhân viên, tôi tiếp bà khách. Bà tự xưng là người phối ngẫu chính thức và đã ly d ca ông Hưng. Tôi hình dung được ngay đó là người vợ ca SVSQ Hưng ca gần mười năm trước. Tuy bà đã bớt v thon th, khá người hơn, mà vẫn còn đp ở độ tui trung niên. Bà mang theo một lá đơn xin gửi lương tháng, mà bà nói là do Tòa án phán quyết khi ly d, ̣đến thẳng đa ch ca bà ở Gia Đnh. Tôi ch ghi nhận sự kiện, nhận đơn, mà chưa gii quyết được vì Trung úy Hưng chưa trình diện P2/BTTM.

Sau đó không lâu, tôi nhận tiếp một lệnh khác ca Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng thuyên chuyển Trung úy Lê văn Hưng về SĐ21BB. Như vậy đến năm đó tôi vẫn chưa gặp li Hưng cho đến đầu tháng 6, năm 1971. Vì ông Hưng trình diện thẳng SĐ21BB mà không trình diện P2/BTTM. Cuối năm 1967, vào một buổi chiều, tôi vô tình gặp li người vợ đã ly d đó ca ông Hưng trong Dancing Club Victoria ở Tân Đnh, gần Bộ Tổng Tham Mưu. Bà là v nữ ở đó. Tôi nhận ra bà nhưng bà không nhớ có lần đã gặp tôi ở P2/BTTM gần bốn năm trước. Lúc đó tôi mang cấp bậc Thiếu tá và được biết ông Hưng mang cấp Trung tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 thuộc SĐ21BB và là một trong năm ng kiệt nổi tiếng ở miền Tây. Ít lâu sau nghe ông Hưng thăng cấp Đi tá và làm Tnh trưởng Cần Thơ. Từ cuối năm 1967, sau buổi khiêu v “matinée” ở Victoria, tôi không gặp bà vợ đã ly d ca ông Hưng lần nào nữa. Đến nay đã gần nửa thế k.

Sau buổi thuyết trình đầu tháng 6, năm 1971 đó, Trung tướng Minh mời Đi tá Hưng và tôi ăn cơm trưa trong chiếc “trailer” đặt ở sân trước Tư dinh Tướng Minh ở Biên Hòa. Đáng l tôi không hân hnh được mời tham dự bữa cơm ca hai ông tư lệnh này đâu, nhưng tôi ngh Tướng Minh mời tôi là vì Đi tá Lê văn Hưng nói tôi là bn đồng môn. Lý do thứ hai là vì khi ra trường tôi thuyên chuyển về Tiu đoàn 61 VN đầu năm 1955, làm Trưởng Ban Quân số (Chef Bureau Effectif), đến khong tháng 8 năm 1955, ông Nguyễn văn Minh, lúc đó mang cấp bậc Thiếu tá được bổ nhậm Tiu đoàn trưởng Tiu đoàn 61 VN, kiêm Quận trưởng Quận Đức Hòa, thuộc tnh Chợ Lớn, ch đnh tôi làm Văn phòng trưởng Tiu đoàn (Chef Bureau Secretariat), đồng thời là Chánh văn phòng Quận Đức Hòa cho ông. Sau cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến và Tổng thống Đệ nhất Cộng Hòa cuối năm 1955, Thiếu tá Minh được đề cử chức Tnh trưởng Sa Đéc, thăng cấp Trung tá. Tôi xin thuyên chuyển ra Tiu đoàn 1/43 Sư đoàn 15 Khinh Chiến, đóng ở Dc M, Nha Trang.

Trong Đệ Nh Cộng Hòa ông Minh thăng cấp nhanh chóng, Đi tá Tư lệnh SĐ21BB, rồi Chun tướng, rồi Thiếu tướng, rồi Trung tướng làm Tư lệnh Biệt Khu Th Đô, rồi Tư lệnh QĐIII & V3CT. Ông chưa quên tôi đã từng giúp việc cho ông từ 15 năm trước. Còn lý do thứ ba nữa, đến khi ngồi vào bàn cơm tôi mới được biết là Đi tá Hưng xin Tướng Nguyễn văn Minh cho tôi về giúp ông làm Trưởng Phòng 2 SĐ5BB. Điều này làm tôi bất ngờ. Tôi xin để được suy ngh li. Tướng Minh cng chưa quyết đnh ngay. Sau buổi cơm Đi tá Hưng lên Lai Khê, tôi được Tướng Minh cho ngh phép một tuần về Sài Gòn, nói là để ông s sắp xếp li nhân sự.

Lúc đó, Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT là Đi tá Lê Đt Công không được Tướng Nguyễn văn Minh tín nhiệm đã cho thuyên chuyển xuống SĐ21BB. Phòng 2 tuy còn mấy s quan cấp tá khác nhưng công việc do tôi quán xuyến mặc dù tôi không giữ một chức v nào ở đó. Tôi ngh Trung tá Mch văn Trường, vừa rời chức v Quận trưởng Th Đức về QĐIII & V3CT, đệ tử thân nhất ca Tướng Minh, trước đó là Trưởng Phòng 2 SĐ21BB ca Tướng Minh, s được ch đnh làm Trưởng Phòng 2 Quân đoàn. Nhưng không phi, khi hết phép trình diện Tướng Minh, tôi được ông cho biết Đi tá Hưng đã gởi hai công điện chính thức xin tôi về SĐ5BB. Tướng Minh nói với tôi là nên lên Lai Khê giúp ông Hưng và Trung tá Mch văn Trường cng đã được đưa lên đó giữ chức v Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8. Trung tá Trần văn Bình, Trưởng Phòng 2 SĐ18BB s được ch đnh làm Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT. Điều này cng hợp lý, vì Trung tá Bình là một s quan Quân báo nhiều kinh nghiệm đã từng là Trưởng Khối Tình Báo ca P2/BTTM.

Tôi rất buồn khi nghe quyết đnh ca Tướng Minh. Không phi tôi muốn thối thoát trách nhiệm làm trưởng phòng tình báo chiến trường cấp Sư đoàn mà tôi cho là quan trng. Nhưng tôi ti thân khi phi phc v người bn cùng khóa. Biết đâu việc làm ca tôi không tránh khi những sơ suất, chết quân mất đồn, lúc đó s khó cho ông mà khó cho tôi biết mấy. Thà làm việc cho v tư lệnh nào khác, không giữ một chút tình riêng trong lòng, tôi s an tâm hơn. Thưởng pht s nhận và chu một cách vô tư, thnh thơi hơn, nếu mình hữu công hay mình bất lực. Nhưng là một quân nhân, tôi phi chấp hành lệnh ca thượng cấp. Tôi điện thoi cho Đi tá Hưng và xin cho tôi thu xếp và trình diện SĐ5BB ngày 16 tháng 6. Quá trưa ngày đó, khong 2 giờ, Đi tá Hưng cho trực thăng ch huy ca ông đón tôi ở Biên Hòa lên Lai Khê. Trong văn phòng Tư lệnh, ông Hưng bắt tay và ôm vai tôi lộ v vui mừng. Sau đó, tôi nhận nhiệm sở mà không có bàn giao vì người tiền nhiệm ca tôi là Trung tá Nguyễn Công Ninh đã rời Sư đoàn từ tuần trước. Khi tôi đang hp với các s quan Phòng 2 Bộ Tham mưu và Biệt đội Quân báo Sư đoàn, thì Chánh văn phòng Tư lệnh, Đi úy Nguyễn Đức Phương, gi điện thoi nói là Đi tá Tư lệnh mời tôi dùng cơm tối ti tư dinh, sau buổi hp 5 giờ chiều hằng ngày ở Trung tâm Hành quân Sư đoàn.

Trên chiếc trailler được che chắn bằng nhiều bao cát xung quanh, đặt ở sân sau tư dinh Tư lệnh, song song với dãy nhà văn phòng ca Phòng 2 Sư đoàn, nơi làm việc ca tôi từ buổi trưa đó, cách một lớp rào lưới chống đn B-40, lần đầu tiên tôi gặp người phối ngẫu chính thức ca Đi tá Lê văn Hưng, chính do ông giới thiệu, mà sau đó không lâu tôi được biết nh danh ca bà là Phm Kim Hoàng. Tôi ngh bà là người xứng với ông Hưng. Nước da trắng, gương mặt đp sáng, dáng người mnh mai thanh tú, ging nói du dàng. Bà t ra thân thiện với người đồng môn ca chồng. Ông Hưng cng không hi một câu nào về gia đình hay bn thân tôi từ ngày ra trường. Ông và tôi bàn về các vấn đề thời sự ở phm trù lớn hơn phm trù QĐIII & V3CT, bình đẳng, không gò bó như thường khi tôi tiếp xúc với bất cứ một thượng cấp nào ca tôi trước đó. Sau buổi cơm tối ngày tôi trình diện Sư đoàn, tôi ngh rằng tôi có thể yên tâm làm việc với Đi tá Hưng, không còn mặc cm. Trái li, tôi ngh là phi cố gắng, b tâm cơ nhiều hơn trong việc làm để thực sự giúp người bn hiểu biết mình và cng để chứng t mình có đ kiến thức và kh năng chuyên môn không làm ph lòng ông.

Đó không phi là buổi duy nhất ông bà Hưng đãi cơm tôi trên chiếc trailer ở tư dinh ca tư lệnh trong căn cứ Lai Khê, mà rất nhiều lần trong suốt thời gian tôi phc v ở SĐ5BB dưới quyền ch huy ca ông Hưng. Mỗi khi ông bà tổ chức các buổi ăn gia đình có tính k niệm, người bn duy nhất được mời là tôi. Thêm nữa, mỗi lần khi mà buổi sáng tôi b gch tên trong các lần đề ngh thăng cấp đặc cách, hay trong danh sách đề ngh thưởng huy chương Anh dng Bội tinh, dù ở cấp Sư đoàn mà ông Hưng, với thẩm quyền tư lệnh, có thể ký ban cho. Trong ngày nào đó, nếu ông từ chối đề ngh ca Trung tá Tham mưu trưởng Lê Th Trung, thì buổi chiều bà Hưng gi điện thoi mời tôi ăn cơm tối với ông, bà. Trong buổi cơm, dù tôi t ra bình thường bà Hưng vẫn nói như an i tôi “nh luôn như vậy đó, anh đừng buồn”, trong khi ông Hưng ngồi đó, nghe và cười. N cười vừa an i vừa như bo với tôi rằng ông không muốn để người khác d ngh và Anh dng Bội tinh không thể cấp cho s quan tham mưu. Người hiểu rõ các điều trên đây lúc đó là Trung tá Lê Th Trung, v ch huy trưởng c ca Ông Hưng. Tôi ngh rằng Trung tá Trung nhiều lần cng được gia đình ông Hưng mời ăn những buổi cơm riêng như vậy, vì ông Hưng chắc không quên người đã từng là thượng cấp ca ông khi vừa bước ra khi cổng Quân trường Th Đức. D nhiên người hiểu rõ nhất những mối liên lc thân thiện giữa Tướng Hưng và tôi là bà Hưng. Những buổi cơm có tính cách gia đình này không ch diễn ra trong thời gian tôi phc v ở SĐ5BB mà còn như hằng ngày ở những tháng sau cùng ca chiến cuộc Việt Nam, ti tư dinh Tướng Hưng ở Cần Thơ.

(Phn tiếp theo: Tướng Lê Văn Hưng và Sư Đoàn 5 Bộ Binh)

(*) Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả


 

CATEGORIES
TAGS
Share This

COMMENTS

Wordpress (1)
  • comment-avatar

    Chán các vị quá!
    Tôi đã liên lạc trực tiếp với ông NGQ yêu cầu điều chỉnh lại lời giới thiệu tác giả bài báo.
    Ông Dưỡng là cựu Trung Tá. Ông không làm gì sai để bị giáng cấp cả.
    Tôi sẽ ngưng cung cấp bài cho quý vị nếu quý vị không chịu sửa sai!