Khánh An dịch
(VNTB) – Biển Đông là nơi thể hiện Hà Nội có thể đi xa ra sao trong quan hệ an ninh Hoa Kỳ – Việt Nam
Derek Grossman
Vào ngày 13 tháng 7, Ngoại trưởng Mike Pompeo đã thay đổi chính sách của Hoa Kỳ ở Biển Đông, khiến các bên phản đối các yêu sách chủ quyền mở rộng của Trung Quốc ở Đông Nam Á đáp trả. Đối với Việt Nam, thông báo của ông Pompeo, đại diện cho một chiến thắng rõ ràng – Washington sẽ không còn đứng bên lề trong các tranh chấp hàng hải, và giờ đây sẽ tích cực duy trì các yêu sách chủ quyền đối ở các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) tương ứng của các quốc gia có yêu sách chủ quyền.
Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Việt Nam (MoFA) không đề cập đến Hoa Kỳ khi phản ứng. Thay vào đó, Hà Nội lưu ý rằng “Việt Nam hoan nghênh lập trường của các nước về các vấn đề Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế và chia sẻ quan điểm, như đã nêu trong tuyên bố trong Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36 , rằng UNCLOS [Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển] đặt ra khuôn khổ pháp lý về các hoạt động ở hàng hải.”
Những người quan sát sắc sảo về chính sách bảo mật của Việt Nam, bao gồm cả bản thân tôi, không ngạc nhiên về kết quả này. Kể từ khi Liên Xô từ bỏ quan hệ đồng minh với Việt Nam để hàn gắn quan hệ với Trung Quốc vào năm 1986, Hà Nội đã nhất quán trong nhiều thập kỷ để tránh lặp lại sai lầm khi liên kết với một cường quốc này chống lại một cường quốc khác. Trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung đang gia tăng, quy tắc tương tự đã được áp dụng.
Làm phức tạp thêm vấn đề là chính sách quốc phòng “Bốn không và một phụ thuộc” của Việt Nam – không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mặc dù có thể có một số linh hoạt trong chính sách Bốn không, đặc biệt là đối với điều thứ ba là nếu sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông gia tăng, Hà Nội thường thực hiện cách tiếp cận thận trọng đối với việc giải thích của họ để tránh gây bất lợi cho Bắc Kinh một cách không cần thiết.
Mặc dù hành động cân bằng tinh tế của Việt Nam là hoàn toàn có thể dự đoán được, nhưng dù sao Washington cũng thất vọng, và thể hiện mức độ Hà Nội sẵn sàng tham gia đến mức nào trong Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ nhằm duy trì tự do và cởi mở trong khu vực tránh khỏi sự hung hăn của Trung Quốc. Sự khiêu khích gần đây của Trung Quốc đối với Việt Nam ở Biển Đông, như việc tàu hải cảnh Trung Quốc đánh chìm một tàu đánh cá Việt Nam, tuyên bố của Bắc Kinh về việc thiết lập quyền kiểm soát hành chính ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp, và Trung Quốc xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Hà Nội, có khả năng sẽ buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam xem xét các lựa chọn “đấu tranh” với Trung Quốc. Tuy nhiên, cho đến nay, về cơ bản, Hà Nội không muốn gây nguy hiểm cho “hợp tác” với Bắc Kinh bằng cách tăng cường quan hệ an ninh chặt chẽ hơn với Washington, – “vừa hợp tác vừa đấu tranh” là một đặc điểm nổi bật trong chính sách của Việt Nam đối với bạn bè cũng như đối thủ . Do đó, việc chính quyền Trump hy vọng rằng Việt Nam có thể hỗ trợ mạnh mẽ Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương như là một đối tác “cùng chí hướng” có thể còn hơi sớm.
Tuy nhiên, Hà Nội đã công khai tuyên bố rằng họ hỗ trợ chiến lược của Hoa Kỳ. Đáng chú ý nhất là sách trắng quốc phòng mới nhất của Việt Nam xuất bản vào tháng 11 năm 2019 có nội dung: Việt Nam sẵn sàng tham gia các cơ chế hợp tác an ninh và quốc phòng, bao gồm cả các cơ chế an ninh và quốc phòng ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Bằng cách sử dụng thuật ngữ cụ thể “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, Hà Nội có khả năng cho (với Bắc Kinh) biết rằng Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ có lợi cho lợi ích an ninh quốc gia của Việt Nam.
Khi một báo cáo về Ấn Độ – Thái Bình Dương được đưa ra như vậy là rất có ý nghĩa, vì ngôn từ rất quan trọng ở Việt Nam. Dường như lần duy nhất điều này xảy ra là khi Chủ tịch nước Trần Đại Quang đến thăm Ấn Độ vào tháng 3 năm 2018. Trong chuyến đi đó, ông Quang đã thảo luận về sự cần thiết phải bảo vệ tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, cũng như hòa bình và giải quyết tranh chấp pháp lý. Ông Quang cũng đề cập thêm đến mong muốn về “một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng.”
Ngoài việc sử dụng thuật ngữ Ấn Độ-Thái Bình Dương, các mục tiêu đã nêu trong các tuyên bố công khai của Việt Nam cũng rất phù hợp với chính sách của Hoa Kỳ ở Biển Đông. Ví dụ, Bộ Ngoại Giao Việt Nam thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ UNCLOS để giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển, và trong một trường hợp vào năm 2018, Hà Nội ám chỉ rằng họ ủng hộ Chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương khi nói: “Việt Nam hoan nghênh các sáng kiến và nỗ lực kết nối trong khu vực đóng góp cho mục tiêu này.” Mặc dù Hà Nội không bày tỏ sự đánh giá cao về sự thay đổi sau này trong chính sách Biển Đông với Washington, nhưng động cơ trong phản ứng Việt Nam – hỗ trợ UNCLOS – phản ánh quan điểm của Hoa Kỳ.
Và tất nhiên, việc làm luôn quan trọng hơn lời nói. Từ góc độ này, hợp tác Việt – Mỹ trong lĩnh vực an ninh đang có đà phát triển nghiêm túc. Gần đây nhất, vào ngày 22 tháng 7, hai quốc gia đã ký một bản ghi nhớ về hợp tác nghề cá ở Biển Đông, bao gồm hợp tác về tăng cường khả năng thực thi pháp luật của Việt Nam. Hà Nội cũng không tránh xa những màn trình diễn mang tính biểu tượng cao về sự hỗ trợ quốc phòng của Hoa Kỳ. Trong ba năm qua, Hà Nội đã hai lần mời hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ đến thăm cảng Đà Nẵng. Ngoài ra, năm ngoái, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ (INDOPACOM), Đô đốc Philip Davidson, đã đến thăm Việt Nam lần đầu tiên, cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper, để nhấn mạnh mối quan hệ an ninh Việt Nam-Hoa Kỳ ngày càng bền chặt. Washington cũng đã mời Việt Nam lần thứ hai liên tiếp tham gia cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) năm nay và chuyển một trong hai tàu bảo vệ bờ biển lớp Hamilton, để xây dựng khả năng của Lực lượng bảo vệ bờ biển Việt Nam – và đây chỉ là một số trong nhiều lĩnh vực hợp tác và tăng trưởng an ninh song phương. Với mối đe dọa ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở Biển Đông, không có lý do gì để tin rằng những tương tác này sẽ sớm giảm đi.
Cuối cùng, điều quan trọng cần lưu ý là lợi ích của Việt Nam và Mỹ gắn liền với các khu vực khác ngoài Biển Đông vẫn phù hợp với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Ví dụ, Việt Nam rất nghi ngờ về Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc và Chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương tìm cách chống lại việc Bắc Kinh sử dụng “kinh tế học săn mồi để ép buộc các quốc gia khác”. Điển hình là các hoạt động xây đập của Trung Quốc dọc theo sông Mekong ở các nước láng giềng Lào và Campuchia nằm trong chiến lược BRI.
Hành vi như vậy đặt ra một thách thức sống còn cho vùng hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam vì đây là trung tâm lương thực và cá nước ngọt của Việt Nam. Lượng nước giảm do các con đập của Trung Quốc đã góp phần tàn phá các tác động môi trường khiến Hà Nội phải tìm cách khắc phục với sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ. Thật vậy, Washington vẫn tích cực tham gia vào Sáng kiến Hạ lưu sông Mê Kông (LMI), khi Pompeo vào tháng 8 năm 2019 ở Bangkok tuyên bố rằng “ Mực nước sông ở mức thấp nhất trong một thập kỷ qua, một vấn đề liên quan đến quyết định về việc cắt nước ở thượng nguồn của Trung Quốc. ”
Nhưng Biển Đông là thử nghiệm cho mối quan hệ an ninh Hoa Kỳ-Việt Nam, và về vấn đề này, Hà Nội đã đi xa đến mức có thể cho đến thời điểm này. Trong tương lai, Washington nên kỳ vọng Việt Nam sẽ tiếp tục tìm kiếm sự cân bằng giữa nước láng giềng Trung Quốc, nước có ưu thế về kinh tế và quân sự so với nước này và Hoa Kỳ, có thể giúp bù đắp sức mạnh của Trung Quốc. Điều quan trọng, sách trắng quốc phòng mới nhất của Việt Nam gợi ý mạnh mẽ rằng hợp tác chặt chẽ hơn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là tiền đề rất lớn đối với các đường xu hướng trong hành vi của Trung Quốc. Trong đó nêu rõ: Tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển quan hệ quân sự và quốc phòng cần thiết với các quốc gia khác. Đây là “Một sự phụ thuộc” được đề cập trước đó. Nói cách khác, chừng nào sự quyết đoán của Trung Quốc tiếp tục tăng lên, thì Hà Nội sẽ ngày càng quay sang Washington để được hỗ trợ.
Trong kịch bản này, Hoa Kỳ không cần phải lo lắng về việc liệu Việt Nam có phù hợp với Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương hay không. Ngay cả khi Hà Nội không chính thức lên tiếng ủng hộ thì đã và sẽ vẫn phù hợp. Hà Nội có thể áp dụng các biện pháp khác, ít gây tranh cãi hơn để thể hiện , như nâng cao quan hệ Mỹ-Việt từ “quan hệ đối tác toàn diện”, sang “đối với chiến lược”(Trung Quốc là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, cấp đối tác cao nhất mà Việt Nam có hiện nay.)
Điều đáng lo ngại hơn đối với Washington là khả năng Bắc Kinh thực hiện những toan tính chiến lược nhằm giảm áp lực lên Hà Nội trên Biển Đông. Mặc dù rất khó xảy ra, nhưng nếu bằng cách nào đó hai quốc gia có được một thoả thuận trong khu vực được cả hai bên chấp nhận, thì họ có thể thiết lập lại các mối quan hệ song phương để tránh những nỗ lực của Mỹ nhằm chống lại sự hung hăng của Trung Quốc. Đó là lý do tại sao Hoa Kỳ và Việt Nam bắt buộc phải có cách tiếp cận nhiều mặt, bao gồm cả quan hệ chính trị, kinh tế và con người, để đảm bảo mối quan hệ của hai bên vẫn tốt nếu mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam cải tiến đáng kể.