Việt Nam Thời Báo

VNTB- Vai trò đi lên của Việt Nam trong chiến lược châu Á của Hoa Kỳ

By Tống Linh, The Diplomat, 01/6/2016
Người dịch: Vũ Quốc Ngữ

(VNTB) – Phát triển kinh tế và cải thiện tình hình nội bộ của Việt Nam là phương pháp bền vững duy nhất để có một vị trí trong tranh chấp Biển Đông. Nếu không, Việt Nam sẽ một lần nữa là nạn nhân của trò chơi giữa các cường quốc.

Từ cuộc chiến tranh Việt Nam tới Biển Đông, vị trí của Hà Nội đã thay đổi đáng kể.
Tổng thống Mỹ Barack Obama đã viếng thăm Việt Nam trong ngày 23-25/05. Chuyến viếng thăm được cho là một lợi thế cho Việt Nam trong tranh chấp Biển Đông như là một phần của cuộc đối đầu lớn hơn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Như một bài viết trong The Diplomat đã nói, “Việt Nam được hưởng lợi từ cuộc cạnh tranh giữa các siêu cường trong việc tranh giành quyền kiểm soát vùng Biển Đông.”

Tuy nhiên, thực tế lại phức tạp hơn. Không được quên rằng Việt Nam và Hoa Kỳ đã từng là kẻ thù trong chiến tranh Việt Nam. Chỉ trong năm 1995, 20 năm sau khi Việt Nam thống nhất, mối quan hệ giữa hai nước chính thức được bình thường hóa với chuyến thăm của Tổng thống Bill Clinton đến Việt Nam. Cuộc chiến tranh Việt Nam gây tác động đáng kể như vậy trên cả hai quốc gia nên việc tái lập quan hệ gần đây là hiện tượng đặc biệt. Sự cải thiện trong quan hệ chỉ có thể xảy ra bởi vì Hoa Kỳ đã phát triển một chiến lược mới với tên gọi “tái cân bằng ở châu Á.”
Do đó, việc đánh giá lại vị trí của Việt Nam trong chiến lược tổng thể của Hoa Kỳ trong khu vực là rất quan trọng.
Việt Nam trong chính sách bao vây của Hoa Kỳ
Đối với Washington, cuộc chiến tranh ở Việt Nam được xem là chìa khóa để ngăn chặn “hiệu ứng domino” của cộng sản. Lý thuyết này cho rằng, nếu một quốc gia trong khu vực chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản, các nước láng giềng sẽ tiếp bước sau đó, như hiệu ứng domino. Như vậy, cuộc chiến tranh Việt Nam được coi là một sự can thiệp hợp pháp của Hoa Kỳ để ngăn chặn cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Sự can thiệp của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam là một phần của chính sách ngăn chặn của Mỹ thời Chiến tranh Lạnh.

Việt Nam đã trở thành một chiến trường, nơi Bắc Việt Nam đã được hỗ trợ bởi khối cộng sản đứng đầu bởi Liên Xô và Trung Quốc, và Nam Việt Nam đã được hỗ trợ của Hoa Kỳ. Vào thời điểm chiến tranh Việt Nam, Việt Nam là một quốc gia độc lập non trẻ, giành được độc lập vào năm 1945 nhưng lại bị xâm lược bởi Pháp vào năm 1946, và sau đó phải tiếp tục cuộc chiến cho sự thống nhất mà không có bất kỳ nghỉ ngơi nào sau Hội nghị Geneva năm 1954. Việt Nam trong thế kỷ 21 là một đất nước ổn định về chính trị với sự phát triển kinh tế tích cực. Việt Nam là một thành viên của ASEAN và có mối quan hệ ngoại giao và kinh tế trên khắp thế giới. Về mặt địa lý, Việt Nam nằm cạnh Trung Quốc, có kết nối hữu cơ với các nền kinh tế Trung Quốc và ASEAN, và là một trong hai quốc gia thể hiện yêu cầu chủ quyền mạnh nhất ở Biển Đông, Việt Nam giữ một vị trí chiến lược nếu Hoa Kỳ có ý định kiềm chế Trung Quốc.
Do đó, Việt Nam lại một lần nữa trở thành một yếu tố quan trọng trong chính sách bao vây mới của Hoa Kỳ ở ba lĩnh vực. Ở lĩnh vực kinh tế, Việt Nam được đưa vào nhóm 12 nước trong Hiệp định thương mại Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) không có sự tham dự của Trung Quốc. Ở mặt trận ngoại giao, Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ kiện cáo của Philippines chống lại tuyên bố chủ quyền vô lý của Trung Quốc ở Biển Đông và nhấn mạnh sự hợp tác của các nước ASEAN như một diễn đàn hợp pháp trong khu vực. Trong lĩnh vực quân sự, Hoa Kỳ đã dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam và tăng cường hỗ trợ tài chính để Việt Nam phát triển khả năng phòng thủ hải quân. Thực tế, Việt Nam là nước duy nhất có liên quan đến chính sách ngăn chặn của Mỹ ở cả ba mặt trận (Philippines, ví dụ, không được mời vào TPP và Nhật Bản không phải là trong ASEAN hoặc tham gia vào các vụ kiện chống lại Trung Quốc) cho thấy tầm quan trọng của Việt Nam trong các chính sách bao vây mới của Mỹ. Đây là một sự phát triển tuyệt vời từ vị trí không thuận lợi của quốc gia này trong chiến tranh Việt Nam.
Từ vai trò kẻ thù của Hoa Kỳ đến đối tác chiến lược
Sự phát triển đáng chú ý đầu tiên của vai trò của Việt Nam trong chính sách ngăn chặn Hoa Kỳ là sự thay đổi từ vị trí kẻ thù thành một đối tác chiến lược của Washington.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Việt Nam đã bị Hoa Kỳ nhắm mục tiêu như là một chìa khóa để ngăn chặn “hiệu ứng domino” của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. Việt Nam đã trải qua một cuộc chiến tranh chết chóc và khốc liệt với người Mỹ để đạt được sự thống nhất của đất nước. Đất nước này trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới với việc chống lại Hoa Kỳ với công nghệ quân sự tiên tiến và nền kinh tế siêu cường, và đã hoàn toàn gây sốc cho chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ với hội chứng Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thế kỷ 21, vị thế đã thay đổi đáng kể. Sau khi Trung Quốc tăng cường gây hấn để đòi yêu sách vô lý ở Biển Đông, Mỹ đã quyết định dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí áp dụng đối với Việt Nam từ năm 1984. Hơn nữa, Việt Nam cũng được đưa vào Sáng kiến ​​an ninh hàng hải mới ở Đông Nam Á của Washington, một kế hoạch nhằm tăng cường khả năng hải quân của tám nước ASEAN để đối lại thách thức hàng hải ở Biển Đông.

Đáng chú ý nhất, Việt Nam được đưa vào TPP, một hiệp định nhằm đối phó lại với sáng kiến của Trung Quốc “Một vành đai, một con đường.” TPP được một số nhà quan sát coi như là một nỗ lực rõ ràng của Hoa Kỳ để ngăn chặn Trung Quốc, vì hiệp ước này cố tình bỏ qua Trung Quốc cho dù quốc gia này có vai trò quan trọng trong thương mại xuyên Thái Bình Dương. Sự vắng mặt của Philippines trong danh sách các đối tác TPP cũng là đáng chú ý. Trong khi Philippines là đồng minh thân cận của Washington trong khu vực ASEAN, với một hiệp ước phòng thủ với của Hoa Kỳ để bảo vệ Philippines trong trường hợp bị tấn công, Manila không được mời vào TPP như Hà Nội. Thực tế này cho thấy Việt Nam đang trở thành quân bài thiết yếu trong chiến lược ngăn chặn của Mỹ đối với Trung Quốc.
Từ sự tham gia thụ động với thành viên tích cực
Một phần lý do cho sự thay đổi này là Việt Nam được hưởng một vị trí độc lập hơn trong tranh chấp Biển Đông so với vị trí nó đã có trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Quay lại thời đó, Việt Nam là một quốc gia mới được độc lập, với ít tài nguyên trong cuộc chiến tranh với Nam Việt Nam được hỗ trợ bởi Hoa Kỳ. Mục tiêu của chính sách ngăn chặn của Hoa Kỳ vào lúc đó là Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ liên minh với Trung Quốc để tận dụng sự mâu thuẫn trong khối cộng sản, thay đổi cấu trúc của quan hệ Hoa Kỳ-Liên Xô-Trung Quốc. Trong những năm 1970, căng thẳng giữa hai nước cộng sản lớn tạo cơ hội cho Hoa Kỳ để can thiệp. Cái gọi là quá trình “mở cửa cho Trung Quốc” bắt đầu sau chuyến đi của Tổng thống Richard Nixon tới Bắc Kinh vào năm 1972, giúp cải thiện các mối quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Vào thời điểm đó, Mỹ có thể đàm phán với Trung Quốc, việc thuyết phục Bắc Kinh để hạn chế hỗ trợ cho Việt Nam và liên kết của Liên Xô-Việt Nam. Trong các cuộc đàm phán đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chiến tranh Việt Nam là một trong hai chủ đề quan trọng được thảo luận, cùng các vấn đề Đài Loan, như Henry Kissinger ghi nhận trong sách On China của ông.
Việt Nam đã trở thành một con bài mặc cả và tam giác quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc-Việt Nam đã trở thành một trọng điểm trong chính sách ngăn chặn của Hoa Kỳ. Trong tam giác đó, Việt Nam là dễ bị tổn thương nhất. Hoa Kỳ muốn tận dụng lợi thế của việc mở ngoại giao với Trung Quốc để nhanh chóng kết thúc chiến tranh Việt Nam, trong khi Trung Quốc muốn sử dụng Việt Nam để mặc cả và được lợi thế trong quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc chống lại Liên Xô.
Nam Việt Nam, hay Việt Nam Cộng Hòa, đã được hỗ trợ trực tiếp của Hoa Kỳ – nhưng cho dù mối quan hệ gần gũi, Washington đã ngăn cấm chính phủ Nam Việt Nam ném bom Trung Quốc khi Trung Quốc nắm quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông. Và Trung Quốc đã sẵn sàng cắt giảm hỗ trợ cho Việt Nam, giống như nó đã làm trong năm 1970, nếu có lợi cho quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc chống lại Liên Xô. Việt Nam đã bị mắc kẹt ở giữa, bị sử dụng như món hàng trao đổi bởi các cường quốc lớn. Việt Nam vào thời điểm đó có ít phương tiện để quyết định số phận của chính mình.
Tuy nhiên, trong tranh chấp ở Biển Đông ngày nay, một nhà nước độc lập Việt Nam có nhiều không gian để tự quyết định. Dĩ nhiên, không thể nói rằng Việt Nam hoàn toàn độc lập với ảnh hưởng của Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc. Tuy nhiên, đến một mức độ nào đó, Việt Nam có thể tự quyết định mức độ hợp tác và quan hệ. Ví dụ, sau khi tranh chấp ở Biển Đông đạt đỉnh, chính phủ Trung Quốc luôn luôn tìm cách tăng cường ngoại giao và cố gắng kết nối lại quan hệ. Tập Cận Bình thăm Việt Nam vào tháng 10 năm 2015, tại một điểm rất nhạy cảm trong mối quan hệ của hai nước. Mặc dù mang tính tượng trưng hơn là thực chất, chuyến thăm của Tập cho thấy Trung Quốc không muốn Việt Nam hoàn toàn xa rời Bắc Kinh. Mặt khác, Việt Nam cũng có thể chủ động khởi xướng và phát triển hợp tác quân sự và chính trị với Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ để cân bằng mối quan hệ với Trung Quốc.
Từ một lưỡng cực với một thế giới đa cực
Cách Việt Nam nhận thức bản thân trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là trong tam giác Hoa Kỳ-Trung Quốc-Việt Nam, ảnh hưởng đáng kể vị trí của Việt Nam trong chính sách ngăn chặn của Hoa Kỳ. Trong quá khứ, thế giới là lưỡng cực. Việt Nam đã chọn để được trong khối cộng sản và sau đó rơi vào một cuộc chiến tranh khốc liệt với Hoa Kỳ. Không có trung lập, Việt Nam có thể không thể đồng thời liên minh với Liên Xô và Hoa Kỳ.
Giờ đây cơ cấu quyền lực đã thay đổi. Thế giới mới là đa cực. Quyền bá chủ của Mỹ đã trải qua một sự suy giảm tương đối đáng kể với các cường quốc mới nổi như Trung Quốc, Nhật Bản, Úc, Đức, Ấn Độ, và nhiều nước khác. Trong trật tự thế giới mới, Việt Nam có cơ hội để lựa chọn một loạt các liên minh và tránh rơi vào cuộc đối đầu trực tiếp với Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc.
Chắc chắn, Việt Nam đã có thể chọn đi hoàn toàn với Mỹ, như Nhật Bản và Philippines. Tuy nhiên, Việt Nam đã quyết định cam kết đến một vị trí linh hoạt hơn. Việt Nam thận trọng tránh một cuộc đối đầu trực tiếp với Trung Quốc bằng việc không bắ chước Philippines  để đưa Bắc Kinh ra tòa quốc tế về vi phạm trong Biển Đông. Rõ ràng, có áp lực từ Trung Quốc làm Việt Nam không tham gia vụ kiện của Philippines, nhưng Việt Nam cũng đã nhận thức được rằng tòa án quốc tế sẽ không đứng về phía quốc gia này do vị trí địa chính trị của nó. Việt Nam thích một sự cân bằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chứ không phải làm cam kết đơn giản với một trong hai siêu cường.
Thay vì hoàn toàn liên minh với các cường quốc lớn như Nga, Trung Quốc, hay Hoa Kỳ, Việt Nam đồng thời cố gắng tăng cường hợp tác với nhiều quốc gia như Nga, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc. Nhiều học giả cho rằng ASEAN nên theo đường lối cân bằng và chống lại Trung Quốc của Việt Nam. Trong khi tiếng nói chung của ASEAN về vấn đề Biển Đông còn là một dấu hỏi, ASEAN được trông đợi là một thực thể có sức mạnh trong việc thực thi Ứng xử ở Biển Đông. Một cái nhìn đa chiều như vậy cho phép Việt Nam nhiều không gian và tính linh hoạt để tạo ra vị trí riêng của mình và trong khi vẫn giữ tầm quan trọng của nó trong các chính sách ngăn chặn của Mỹ, một chính sách tập trung vào tranh chấp Biển Đông.

Điều gì tiếp theo cho Việt Nam?
Tự phát triển là cách duy nhất cho Việt Nam để ngăn cách bản thân từ những ảnh hưởng của cuộc đụng độ cường quốc.
Việt Nam là một nước nhỏ bị mắc kẹt ở giữa cuộc đối đầu của các siêu cường – trong quá khứ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, và hiện nay giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Vị trí địa chính trị của Việt Nam hình thành số phận của đất nước như liên quan đến chính sách ngăn chặn của Mỹ trong cả hai cuộc chiến tranh lạnh và tranh chấp Biển Đông hiện nay. Trong thế kỷ 21, Việt Nam đã một lần nữa trở thành một phần tử trong chính sách ngăn chặn của Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc.
Tuy nhiên, khoảng thời gian này Việt Nam khá linh hoạt trong việc điều chỉnh vị trí của nó trong chiến lược ngăn chặn của Hoa Kỳ. Chính sách đối ngoại của Việt Nam về vấn đề Biển Đông là một ví dụ về sự phát triển của một quốc gia độc lập và thực dụng. Là hàng xóm của Trung Quốc, nhưng có một lịch sử lâu dài chiến đấu chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc, đẩy Việt Nam vào một tình thế khó xử cực đoan. Một mặt, chống Trung Quốc là cốt lõi của bản sắc dân tộc và quốc gia, nó gần như là không thể đối mặt với một Trung Quốc khổng lồ. Sự hai mặt của hợp tác trong khối cộng sản đã đánh dấu thời điểm tốt nhất trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Mặt khác, có biên giới với Trung Quốc không cho phép Việt Nam bỏ qua sức mạnh của Trung Quốc và cam kết hợp tác chiến lược hoàn toàn với Hoa Kỳ. Sau ngày thống nhất năm 1975, Việt Nam đã luôn luôn cố gắng để cân bằng mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, cẩn thận không để Trung Quốc tức giận bởi sự thân mật với Mỹ.
Với sự phụ thuộc lẫn nhau trong trật tự thế giới mới, Việt Nam không thể mong đợi bất kỳ hỗ trợ như cam kết nó đã nhận được từ Liên Xô. Vị trí tốt nhất cho Việt Nam trong chính sách ngăn chặn của Hoa Kỳ cho đến bây giờ là giữ linh hoạt, đa phương, và độc lập. Tuy nhiên, một chiến lược như vậy là không bền vững.
Hiện tại, Việt Nam đang phải vật lộn để cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ, ngoài việc bị đe dọa mất chủ quyền ở Biển Đông. Phát triển kinh tế và cải thiện tình hình nội bộ của Việt Nam là phương pháp bền vững duy nhất để có một vị trí trong tranh chấp Biển Đông. Nếu không, Việt Nam sẽ một lần nữa là nạn nhân của trò chơi giữa các cường quốc.
Tống Linh hiện là nghiên cứu sinh tại Đại học Tổng hợp ADA của Azerbaijan.

Tin bài liên quan:

VNTB- Việt Nam: Trả tự do cho nữ bảo vệ nhân quyền và chấm dứt đàn áp các nữ hoạt động

Phan Thanh Hung

VNTB- Tại sao Trung Quốc sẽ không thể vượt Mỹ: Cường quốc hiện tại và tương lai (phần 1)

Phan Thanh Hung

VNTB- Tiềm năng và hiện thực trong hợp tác quân sự Mỹ-Việt sau khi cấm vận vũ khí bị hủy bỏ

Phan Thanh Hung

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.