Minh Tâm
* Tác giả gửi bài trực tiếp cho VNTB
Nội dung được quan tâm nhất tại phiên thảo luận của Thường vụ Quốc hội về sửa đổi luật Tổ chức tòa án nhân dân, luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân hôm 23-9 là “quyền im lặng” của bị can, bị cáo.
Cơ quan soạn thảo cho biết, sở dĩ “chưa dám” luật hóa “quyền im lặng” vì cơ quan điều tra chưa đồng ý.
Làm khó cơ quan điều tra?
Tranh luận quanh tính cần thiết, khả thi của việc bổ sung qui định vẫn đang được áp dụng ở nhiều nước có nền tố tụng tiến bộ trên giới này, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Anh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Công an), lại thấy quyền im lặng “không phù hợp với thực tiễn văn hóa nước ta bởi đa phần người bị tình nghi khi bị bắt đều kêu oan, chứ không im lặng”.
Hơn nữa, từ góc độ cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là cơ quan điều tra, thì “quyền im lặng chờ luật sư” sẽ làm chậm tiến trình khai thác thông tin sự kiện, điều tra vụ việc hay nói cách khác là sẽ “làm khó” cho cơ quan tiến hành tố tụng vì phải “chờ luật sư”.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận, “kêu oan” không đồng nghĩa với việc “không im lặng” bởi như lý giải của Trung tướng Trần Văn Độ, Chánh án Tòa án Quân sự Trưng ương, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao (TANDTC) – quyền im lặng chờ luật sư thực chất là quyền không khai báo cho đến khi có sự tư vấn của luật sư. Như vậy, “sẽ tránh được cho một người việc tự buộc tội mình, thiệt hại cho bản thân”, Phó Chánh án TANDTC khẳng định về ý nghĩa của việc có luật sư khi một người phải khai báo trước cơ quan điều tra.
Quyền im lặng là quyền con người
Ở nhiều nước ngay khi cảnh sát bắt giữ nghi phạm thì câu nói đầu tiên là “ông/bà được quyền giữ im lặng”… Đó là một động tác đơn giản để giải thích quyền công dân, theo đó cho phép người bị tạm giữ, bị can được quyền im lặng để chờ luật sư của mình, khi chưa có luật sư tham gia thì họ có quyền chưa phải trả lời cơ quan điều tra, mục đích là để bảo đảm tối đa quyền con người, trong trường hợp họ bị tình nghi phạm tội.
Theo Tòa án tối cao Hoa Kỳ (http://www.supremecourt.gov/; Supreme Court of the United States, viết tắt SCOTUS hay USSC), trước khi thẩm vấn, cảnh sát phải thông báo cho nghi phạm hình sự như sau: “Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có quyền có luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh.
Nếu anh không thể tìm được luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật sư, nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ sự có mặt của luật sư”.
Gián tiếp của “quyền im lặng”
Điều 31, Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Mặc dù không ghi rõ rằng đó là “quyền im lặng” nhưng quyền hiến định này cho phép “người bị bắt, tạm giữ, tạm giam” được mời luật sư trợ giúp, họ không bị buộc phải đơn độc trước cơ quan điều tra hay tòa án. Nói cách khác họ hoàn toàn có quyền nhờ luật sư thay mặt mình trả lời mà không phải trực tiếp lên tiếng, đây thực chất chính là “quyền im lặng”.
Đoạn 2 điều 10, Bộ Luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) 2003 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.
Quy định này có nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng khi cần chứng minh là mình vô tội. Tuy nhiên luật tố tụng lại không có điều khoản cụ thể quy định nghi can có quyền im lặng khi bị thẩm vấn nhằm buộc tội chính họ.
Sự mâu thuẫn giữa Hiến pháp và BLTTHS 2003 là ở chỗ Hiến pháp cho phép (gián tiếp) công dân sử dụng “quyền im lặng” nhưng BLTTHS lại “bỏ sót” quyền này.
Cũng do chưa có quy định về quyền im lặng nên nhiều người bị tạm giữ, tạm giam khi không khai đã bị khép lỗi không thành khẩn và bị tăng nặng hình phạt. Còn nếu khai thì không chừng có khi bị coi là “khai báo quanh co”…
Đã có một số vụ án từng bị chệch hướng, dẫn đến oan, sai do thiếu sự tham gia của luật sư từ giai đoạn đầu của quá trình tố tụng. Không hiếm người bị tạm giam, tạm giữ bắt buộc phải một mình đối diện với cơ quan điều tra trong khi thiếu hiểu biết về pháp luật.
Khi quy định chỉ là… phấn son cho nhân quyền?
Thông tư 70/2011/TT-BCA hướng dẫn quy định của BLTTHS liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang ban hành.
Thông tư 70 quy định điều tra viên phải giải thích cho người bị bắt quyền có luật sư và cho phép người nhà của họ được yêu cầu luật sư. Nhưng trên thực tế, có bao nhiêu điều tra viên thực hiện đầy đủ trách nhiệm này? Có bao nhiêu vụ án mà luật sư được ngồi nghe điều tra viên lấy lời khai từ buổi làm việc đầu tiên?
Bởi thế mới có chuyện hàng loạt oan án đã xảy ra như vụ Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), vụ Nguyễn Minh Hùng (Tây Ninh), vụ “Vườn điều” (Bình Thuận)…
Thời gian ban đầu khi bị bắt giữ, người bị tình nghi thường rất hoang mang, lo sợ cho thân phận của mình… Họ rất dễ bị chi phối và có khi bị lệ thuộc bởi hoàn cảnh khách quan. Nhất là khi họ bị dụ cung, ép cung… Nhiều người đã buộc phải theo sự gợi ý của cơ quan điều tra để khai nhận những việc không xảy ra trong thực tế.
Để đảm bảo quyền bào chữa của nghi can, đảm bảo nguyên tắc pháp quyền, có lẽ không cần chờ đợi trình tự sửa đổi luật Tổ chức TAND, luật Tổ chức viện kiểm sát (VKS) nhân dân, mà ngay chính Bộ trưởng Trần Đại Quang đã có thể ban hành ngay một thông tư, hoặc thay đổi/ bổ sung điều khoản ở Thông tư 70/2011/TT-BCA về thể chế hóa quyền im lặng của nghi can.
Theo đó, ngay từ lúc đầu, người bị tạm giữ, tạm giam phải được cơ quan tố tụng giải thích rõ là “ông (bà) có quyền giữ im lặng và không có nghĩa vụ khai báo điều gì trước khi người bào chữa có mặt”. Nếu nghi can không yêu cầu luật sư hoặc chưa mời luật sư thì cơ quan tố tụng phải mời người từ các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
“Quyền im lặng” sẽ giúp cơ quan điều tra không phải mang tiếng bị nghi ngờ về chuyện bức cung, nhục hình.
Như vậy, ở đây thay vì như báo chí mô tả rằng “Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng tỏ ra không hài lòng khi ban soạn thảo luật này không đề cập đến nội dung quyền im lặng trong dự thảo”, thì chủ tịch phải thắc mắc “vì sao Bộ trưởng Bộ Công an lại tiếp tục để “lính” của mình hứng chịu búa rìu dư luận về bức cung, nhục hình?”.
“Vì họ nể nang nhau”
Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc, người từng bị chịu án oan tại tỉnh Cà Mau vào chục năm trước đây, chia sẻ với người viết:
“Thực tế không có ai điên rồ, ngu xuẩn tự nhận mình phạm tội rồi lại kêu oan. Nhiều cán bộ trại giam nói với tôi rằng khi trích xuất nghi phạm đang bị tạm giam để lấy cung, nếu các nghi phạm này bị đánh mà la thật to lên thì anh em cán bộ trại nghe tiếng sẽ đưa họ vào trại luôn, không cho điều tra viên lấy cung nữa. Tôi biết có nhiều cán bộ trại giam rất tốt, bức xúc với việc cán bộ điều tra bức cung, dùng nhục hình.
Đáng lẽ tòa và VKS cần phải xem xét lại lời bị cáo khai bị ép cung bằng nhiều cách như kiểm tra xem cán bộ trại giam nào đưa bị cáo đi lấy cung, sau khi lấy cung xong về buồng giam có kể việc mình bị đánh đập không?
Tôi tin rằng VKS hoàn toàn có thể điều tra được, nhưng tôi cảm giác bây giờ các cơ quan tố tụng đang nể và ngại nhau, tòa ngại VKS, VKS ngại cơ quan điều tra. Không ít lần tôi đã chứng kiến việc chủ tọa phiên tòa bắt bị cáo ngưng khai khi bị cáo nêu tên một điều tra viên nào đó đã bức cung mình…”.
Theo Viện trưởng VKS Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình, khi tổ chức góp ý về quyền im lặng, ban soạn thảo của VKS đã nhận được rất nhiều ý kiến khác nhau. Cơ quan điều tra không muốn đưa điều này vào luật, còn luật sư thì lại rất muốn…
Vậy là vì “nể nang nhau”, nên VKS đã chọn im lặng để bỏ qua “quyền im lặng”.
Nếu chủ trương xây dựng một xã hội pháp quyền, một nhà nước của dân, do dân và vì dân là chủ trương lớn của Đảng thì việc “tạm bỏ” quyền im lặng có còn là do dân và vì dân? Nếu không vì dân thì vì ai, ai hưởng lợi từ việc không đưa quyền này vào luật: cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án hay giới luật sư?
Xem ra hỏi tức là trả lời!