Việt Nam Thời Báo

VNTB – Bộ Chính trị tụt hậu khoa học-công nghệ ra sao?

TS Phạm Đình Bá

 

(VNTB) – “Không có đổi mới thể chế toàn diện, các nghị quyết dù tiến bộ vẫn khó tránh khỏi bị ‘chìm’ trong bộ máy quan liêu”, TS. Lê Duy Bình.

 

Báo “Nhân dân” gần đây cho rằng Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đánh dấu sự chuyển dịch mạnh mẽ trong tư duy đầu tư cho khoa học và công nghệ (KH&CN).

Thẳng thắn mà phản biện, Bộ Chính trị đã đóng góp gì và sự tụt hậu về KH&CN của đất nước?

Các quốc gia Đông Nam Á đã xây dựng hệ thống chính sách KH&CN dựa trên ba trụ cột chính: khung pháp lý toàn diện, đầu tư dài hạn vào nghiên cứu và phát triển (R&D), và hợp tác công-tư. Singapore với Kế hoạch Nghiên cứu, Đổi mới và Doanh nghiệp (RIE) 2025 đầu tư 25 tỷ SGD (tương đương 1% GDP) vào KH&CN. Malaysia thông qua Chính sách Quốc gia về KH&CN 2021-2030 tập trung vào chuyển đổi số và công nghiệp 4.0, trong khi Indonesia đặt mục tiêu tăng chi tiêu R&D lên 3% GDP vào 2025. Các nước này đều có luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động KH&CN, như Luật KH&CN 2019 của Indonesia hay Đạo luật KH&CN 2013 của Malaysia.

Cơ Chế “Nghị Quyết Bộ Chính Trị” của Việt Nam có những đặc trưng và thách thức. Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) thể hiện tầm nhìn chiến lược khi xác định KH&CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá hàng đầu cho phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, cơ chế vận hành dựa trên nghị quyết chính trị có những đặc điểm khác biệt so với mô hình pháp quyền của các nước láng giềng.

Nghị quyết 57-NQ/TW cho phép thiết lập ưu tiên quốc gia nhanh chóng, không cần trải qua quy trình lập pháp phức tạp. Ví dụ, mục tiêu dành 2% GDP cho R&D vào 2030 được đưa ra chỉ sau 3 tháng so với Indonesia mất 5 năm để thông qua Luật Hệ thống KH&CN Quốc gia năm 2019.

Cơ chế “chỉ đạo từ trên xuống” ở Việt Nam giúp đồng bộ hành động giữa các bộ ngành, như việc Chính phủ ban hành Nghị quyết 03/NQ-CP ngay sau đó để triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Cơ chế này phát huy hiệu quả trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, khi cần huy động nguồn lực công ồ ạt. Ví dụ, giai đoạn 2021-2025, Singapore phân bổ 19 tỷ SGD cho R&D trong khoảng 5 năm, trong khi Việt Nam có thể triển khai nhanh các dự án trọng điểm nhờ cơ chế đặc thù từ nghị quyết.

Các nước như Malaysia và Thái Lan xây dựng khung pháp lý ổn định (ví dụ Luật KH&CN Malaysia 2013, Luật Chuyển giao Công nghệ Myanmar 2018), trong khi chính sách qua nghị quyết của Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi nhiệm kỳ. Nghị quyết 57-NQ/TW chưa có cơ chế ràng buộc pháp lý để đảm bảo các mục tiêu 2030 sẽ được kế thừa qua các giai đoạn với những thay đổi nhân sự hàng đầu trong Bộ Chính trị.

Hệ thống giám sát của các nước ASEAN thường bao gồm ủy ban liên ngành và chỉ số đo lường cụ thể. Ví dụ, Malaysia thiết lập Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Cấp địa phương (PII), trong khi Việt Nam chủ yếu dựa vào báo cáo định kỳ của các bộ.

Bảng so sánh dưới đây thể hiện sự khác biệt trong cách tiếp cận chính sách KH&CN giữa Việt Nam và các nước ASEAN:

Tiêu Chí Việt Nam (NQ 57) Singapore (RIE2025) Malaysia (NSTIP 2021-2030)
Cơ Sở Pháp Lý Nghị quyết chính trị Đạo luật Quốc hội Luật KH&CN 2013
Cơ Chế Tài Chính 2% GDP từ ngân sách + tư nhân 1% GDP (25 tỷ SGD) 1.5% GDP (kế hoạch 2030)
Ưu Đãi Thuế Giới hạn 10% lợi nhuận Miễn thuế toàn phần Ưu đãi liên tục
Hợp Tác Công-Tư Khuyến khích chung Đối tác công-tư 4 lĩnh vực Mô hình Quadruple Helix

Trong bảng, mô hình Quadruple Helix Innovation Model (QHIM) của Malaysia kết nối bốn bên – nhà nước, doanh nghiệp, viện nghiên cứu và cộng đồng. Mô hình nầy đã tạo ra khung hợp tác đa chiều để đảm bảo hệ thống pháp luật phản ánh nhu cầu thực tiễn, đồng thời giải quyết ba thách thức chính trong xây dựng luật: khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn, phản hồi từ cộng đồng yếu kém, và ứng dụng tri thức khoa học hạn chế. Bài học từ Malaysia cho thấy tính thực tiễn của luật không nằm ở văn bản, mà ở quy trình xây dựng bao trùm và minh bạch.

Trong khi đó ở Việt Nam, việc triển khai các nghị quyết của Bộ Chính trị thường gặp rào cản thể chế và sự thiếu đồng bộ giữa tầm nhìn chiến lược với điều kiện thực tiễn. Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) về phát triển KHCH và chuyển đổi số đặt mục tiêu 2% GDP cho R&D vào 2030, nhưng thực tế năm 2023, tỷ lệ này chỉ đạt 0.4% GDP. Nguyên nhân chính nằm ở cơ chế tài chính cứng nhắc. Quy định giới hạn 10% lợi nhuận trước thuế cho đầu tư KH&CN (Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp) làm giảm động lực doanh nghiệp tư nhân, trong khi Singapore cho phép khấu trừ toàn bộ chi phí R&D.

Thủ tục công nhận doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam phức tạp khiến 70% doanh nghiệp bỏ cuộc do”hỗ trợ không xứng với công sức”, trái ngược với việc đơn giản hóa thủ tục qua một cổng thông tin tích hợp về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Malaysia.

Mặc dù khu vực doanh nghiệp ở Việt Nam đóng góp khoảng 64% trong tổng đầu tư R&D cả nước, nhưng mức đầu tư này vẫn còn rất khiêm tốn khi so sánh với các nước trong khu vực. Theo Báo cáo Hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo mở Việt Nam 2023, mức đầu tư R&D trong các doanh nghiệp Việt Nam năm 2023 chỉ đạt 0,4% GDP, xếp thứ 66 toàn cầu và giảm 7 bậc so với năm 2022.

Điều đáng lo ngại là tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các ngành sản xuất còn rất thấp: ngành sản xuất thiết bị điện chỉ có 17%, ngành sản xuất hóa chất là 15%, ngành chế biến thực phẩm là 9% và ngành cao su và nhựa chỉ có 7%.

Trong khi Việt Nam đang giảm thứ hạng về đầu tư R&D, các nước trong khu vực lại có xu hướng ngược lại. Thái Lan tăng 4 bậc, Singapore tăng 3 bậc, Malaysia và Philippines đều tăng 2 bậc. Năm 2019, ngân sách cho R&D tại Việt Nam chỉ bằng 0,53% tổng GDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước trong khu vực ASEAN (trừ Indonesia và Philippines).

Tỷ lệ nhân lực làm R&D trên dân số của Việt Nam cũng tương đối thấp, chỉ tương đương 20% so với tỷ lệ trung bình của khu vực. Điều này cho thấy không chỉ đầu tư tài chính hạn chế mà nguồn nhân lực chất lượng cao cho R&D tại Việt Nam cũng còn thiếu so với các nước láng giềng.

Về xây dựng chính sách, Việt Nam thiếu cơ chế phản hồi từ cộng đồng. Mặc dù Hiến pháp 2013 công nhận quyền tham gia của người dân vào hoạch định chính sách, cơ chế phản hồi vẫn tồn tại hạn chế về tính minh bạch và hiệu quả. Theo khảo sát của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP 2012), chỉ 27% ý kiến từ diễn đàn công dân được tích hợp vào luật cuối cùng.

Việt Nam chủ yếu dựa vào hội nghị lấy ý kiến tập trung, trong khi hệ thống tham vấn trực tuyến của Malaysia thu nhận 4,2 triệu phản hồi/năm. Điều này ở Việt Nam dẫn đến sự tham gia không đồng đều, đặc biệt từ nhóm yếu thế và khu vực nông thôn, nơi chỉ đóng góp 18% ý kiến.

Mối liên kết nhà nước – doanh nghiệp – viện nghiên cứu tại Việt Nam còn lỏng lẻo. Chỉ 9,6% doanh nghiệp thực hiện R&D, trong khi 17% chọn mua công nghệ nước ngoài. Nguyên nhân chính nằm ở cơ chế hợp tác phi thực tế. Các đề tài nghiên cứu từ các viện nghiên cứu hay các ngành trong đại học thường xa rời nhu cầu thị trường, trong khi doanh nghiệp thiếu động lực để hợp tác với các đơn vị nghiên cứu.

Nghị quyết 57-NQ/TW khuyến khích hợp tác công-tư nhưng thiếu khung pháp lý cụ thể. Ví dụ, Luật Chuyển giao Công nghệ 2017 không quy định rõ cơ chế sở hữu trí tuệ chung, dẫn đến tranh chấp giữa doanh nghiệp và các nhà khoa học. Bên cạnh đó, đầu tư dàn trải khiến các dự án KH&CN thiếu trọng tâm. Theo đó, 80% ngân sách R&D tập trung vào nghiên cứu cơ bản, chỉ 20% cho ứng dụng thực tiễn.

Việt Nam cũng có hạn chế trong hội nhập quốc tế. Cơ chế nghị quyết khó tạo lòng tin cho đối tác nước ngoài so với hệ thống pháp lý minh bạch của Thái Lan (Luật STI 2018) hay Indonesia (Luật Số 11/2019). Ví dụ, quy định về chuyển giao công nghệ tại Myanmar yêu cầu minh bạch hợp đồng và cơ chế giải quyết tranh chấp, trong khi Việt Nam chưa có hướng dẫn chi tiết.

Không có đổi mới thể chế toàn diện, các nghị quyết dù tiến bộ vẫn khó tránh khỏi bị ‘chìm’ trong bộ máy quan liêu” (TS. Lê Duy Bình)

Cơ chế nghị quyết của Bộ Chính trị có thể tạo đột phá trong giai đoạn đầu nhờ tốc độ và khả năng huy động nguồn lực, nhưng để phát triển KH&CN bền vững, Việt Nam cần chuyển sang mô hình pháp quyền, xây dựng hệ thống giám sát đa chiều, tăng hợp tác công-tư và học hỏi kinh nghiệm xây dựng luật minh bạch, linh hoạt từ các nước ASEAN. Nếu không đổi mới thể chế, các nghị quyết dù tiến bộ vẫn dễ bị “chìm” trong bộ máy quan liêu.


 

Tin bài liên quan:

VNTB – Có thể nào đoán đến bao giờ đảng hết bắt giam niềm tin?

Baraju T. Ogelefecejo

VNTB – Nếu bất an, sao vẫn còn giữ?

Baraju T. Ogelefecejo

VNTB – Tại sao Lâm hiểu ý này mà hơi “bí” ý kia?

Bùi Ngọc Dân

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Việt Nam Thời Báo